SKKN Góp phần hình thành và phát triển năng lực tư duy và lập luận toán học cho học sinh thông qua dạy học chủ đề tổ hợp - Xác suất
1. Lý do chọn đề tài.
Môn Toán ở trường phổ thông mang ý nghĩa là môn học công cụ, song nó
cũng là môn học rèn luyện được nhiều năng lực cho học sinh đặc biệt là năng lực tư
duy và lập luận. Người ta thường nói môn Toán là môn “thể thao trí tuệ”. Dạy Toán
không phải là đơn thuần cung cấp một vài công cụ tính toán cho các môn học khác
mà người giáo viên phải biết truyền cảm hứng và ngọn lửa đam mê cho các thế hệ
học sinh, tạo sự hào hứng cho các bạn trẻ yêu toán. Để làm được như vậy thì trong
quá trình dạy học toán chúng ta cần làm tôn lên vẻ đẹp của toán học và làm nó hấp
dẫn hơn. Vẻ đẹp của Toán học sẽ được tôn lên nếu như giáo viên dạy toán biết khai
thác một bài toán dưới nhiều khía cạnh cho học sinh và gắn liền với thực tiễn. Một
trong những chủ đề Toán học có nhiều ứng dụng trong các môn khoa học khác cũng
như trong thực tiễn cuộc sống là Tổ hợp - Xác suất. Các bài toán trong chủ đề phong
phú và đa dạng, có nhiều phương pháp giải khác nhau. Dù nội dung của chủ đề Tổ
hợp - Xác suất khó và dễ mắc sai lầm thì thời gian để dạy phần này lại khá ít, đồng
thời việc khai thác các tiềm năng của chủ đề để phát triển các năng lực cho học sinh
còn khá eo hẹp. Các bài tập về Tổ hợp - Xác suất trong sách giáo khoa chỉ đơn thuần
là các bài toán rất cơ bản, chủ yếu vận dụng trực tiếp các công thức ở mức độ nhận
biết và thông hiểu. Tuy nhiên, nếu biết khai thác một cách khéo léo có thể biến đổi,
chuyển hóa các bài toán đó sang mức vận dụng, vận dụng cao và thậm chí có thể
đưa vào đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh.
Môn Toán ở trường phổ thông mang ý nghĩa là môn học công cụ, song nó
cũng là môn học rèn luyện được nhiều năng lực cho học sinh đặc biệt là năng lực tư
duy và lập luận. Người ta thường nói môn Toán là môn “thể thao trí tuệ”. Dạy Toán
không phải là đơn thuần cung cấp một vài công cụ tính toán cho các môn học khác
mà người giáo viên phải biết truyền cảm hứng và ngọn lửa đam mê cho các thế hệ
học sinh, tạo sự hào hứng cho các bạn trẻ yêu toán. Để làm được như vậy thì trong
quá trình dạy học toán chúng ta cần làm tôn lên vẻ đẹp của toán học và làm nó hấp
dẫn hơn. Vẻ đẹp của Toán học sẽ được tôn lên nếu như giáo viên dạy toán biết khai
thác một bài toán dưới nhiều khía cạnh cho học sinh và gắn liền với thực tiễn. Một
trong những chủ đề Toán học có nhiều ứng dụng trong các môn khoa học khác cũng
như trong thực tiễn cuộc sống là Tổ hợp - Xác suất. Các bài toán trong chủ đề phong
phú và đa dạng, có nhiều phương pháp giải khác nhau. Dù nội dung của chủ đề Tổ
hợp - Xác suất khó và dễ mắc sai lầm thì thời gian để dạy phần này lại khá ít, đồng
thời việc khai thác các tiềm năng của chủ đề để phát triển các năng lực cho học sinh
còn khá eo hẹp. Các bài tập về Tổ hợp - Xác suất trong sách giáo khoa chỉ đơn thuần
là các bài toán rất cơ bản, chủ yếu vận dụng trực tiếp các công thức ở mức độ nhận
biết và thông hiểu. Tuy nhiên, nếu biết khai thác một cách khéo léo có thể biến đổi,
chuyển hóa các bài toán đó sang mức vận dụng, vận dụng cao và thậm chí có thể
đưa vào đề thi học sinh giỏi cấp Tỉnh.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Góp phần hình thành và phát triển năng lực tư duy và lập luận toán học cho học sinh thông qua dạy học chủ đề tổ hợp - Xác suất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Góp phần hình thành và phát triển năng lực tư duy và lập luận toán học cho học sinh thông qua dạy học chủ đề tổ hợp - Xác suất
4 điểm, kết hợp với điểm tổng kết thì có thể đủ điều kiện để tốt nghiệp. Suy nghĩ đó đúng hay không, hãy phát biểu bài toán và giải quyết bài toán đó. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề thi THPT môn Toán hiện tại, mỗi câu đúng điểm tính như thế nào, xác suất đúng mỗi câu bao nhiêu, từ đó xây dựng bài toán. 39 Ví dụ 4.1. (Bài toán điểm thi trắc nghiệm) Bạn Lộc tham gia kì thi tốt nghiệp THPT. Đề thi môn Toán gồm 50 câu trắc nghiệm, mỗi câu có 4 phương án trả lời trong đó chỉ có một phương án đúng; trả lời đúng mỗi câu được 0,2 điểm. Điểm tổng kết lớp 12 của Lộc là 7,0. Để đậu tốt nghiệp, Lộc cần có điểm trung bình các bài thi là 4.2. Tính xác suất để bạn Lộc thi môn Toán đạt 4,2 điểm biết Lộc không thích học và không học Toán. Lời giải: - Để đạt được 4,2 điểm thì học sinh cần trả lời đúng 4,2 ∶ 0,2 = 21 câu và sai 50 − 21 = 29 câu. - Xác suất trả lời đúng mỗi câu là 0,25 nên xác suất để bạn Lộc đạt 4,2 là: (0,25)21. (0,75)29 ≈ 5,4. 10−17(0,000000000000000054) Nhìn vào kết quả để thấy được xác suất đậu tốt nghiệp của ban Lộc là một con số rất rất nhỏ. Vì vậy, qua ví dụ này, giáo viên nhấn mạnh vào con số rất nhỏ đó, chấn chỉnh ý thức học tập cho học sinh. Ví dụ trên đã cho thấy một mặt ứng dụng của xác suất trong thực tế. Tìm hiểu kỹ hơn, chúng ta thấy xác suất còn có nhiều ứng dụng khác trong đời sống. Tình huống 2. Có một đoàn thanh tra về trường để kiểm tra chất lượng học Toán và Tiếng Anh tại một trường THPT và đề xuất vào một lớp để khảo sát. Biết số lượng học sinh giỏi các môn của hai lớp khá nhất, hiệu trưởng nên mới đoàn thanh tra vào lớp nào để thu được kết quả khả quan hơn. Giáo viên gợi ý bài toán đặt ra cần tính đại lượng nào? Muốn tính đại lượng đó thì cần biết những số liệu nào của học sinh hai lớp. Ví dụ 4.2. Lớp 11𝐴 có 45 học sinh, lớp 11𝐴1 có 43 học sinh. Số lượng học sinh giỏi Toán và Tiếng Anh của hai lớp được cho bằng bảng sau. Có một đoàn thanh tra kiểm tra chất lượng về môn Toán và Tiếng Anh tại trường. Hiệu trưởng nên mời vào lớp nào để khả năng gặp được một em giỏi ít nhất một môn là cao nhất. Lớp Môn 𝟏𝟏𝑨 𝟏𝟏𝑨𝟏 Toán 25 22 Tiếng Anh 15 18 Toán và Tiếng Anh 12 5 Lời giải: - Gọi T là biến cố học sinh giỏi Toán, A là biến cố học sinh giỏi Tiếng Anh. - Xác suất để chọn được một học sinh giỏi Toán hoặc Tiếng Anh ở lớp 11𝐴 là: 40 𝑃(𝑇 ∪ 𝐴) = 𝑃(𝑇) + 𝑃(𝐴) − 𝑃(𝑇 ∩ 𝐴) = 25 45 + 15 45 − 12 45 = 28 45 = 0,6(2) - Xác suất để chọn được một học sinh giỏi Toán hoặc Tiếng Anh ở lớp 11𝐴1 là: 𝑃(𝑇 ∪ 𝐴) = 𝑃(𝑇) + 𝑃(𝐴) − 𝑃(𝑇 ∩ 𝐴) = 22 43 + 18 43 − 5 43 = 35 43 ≈ 0,814 - Vậy nên chọn lớp 11𝐴1. Tình huống 3. Một mạch điện tử được lắp từ các linh kiện điện tử. Giữa mắc nối tiếp và mắc song song, cách mắc nào khả năng hư hỏng ít hơn. Ví dụ 4.3. Có 3 linh kiện điện tử xác suất hỏng tại cùng một thời điểm tương ứng là 0,01; 0,015; 0,025. Tìm xác suất để dòng điện chạy qua mạch trong trường hợp: a) Mắc nối tiếp; b) Mắc song song; Ở đây học sinh phải hiểu được bản chất của dòng điện đi qua mạch mắc nối tiếp thì tất cả các linh kiện điện tử phải không hỏng, còn dòng điện muốn đi qua mạch mắc song song thì chỉ cần ít nhất một linh kiện điện tử không hỏng. Lời giải: - Gọi 𝐴𝑖 là biến cố “Linh kiện thứ 𝑖 tốt” (𝑖 = 1,2,3). - Gọi 𝐴 là biến cố “Dòng điện chạy qua mạch mắc nối tiếp”. - Gọi 𝐵 là biến cố “Dòng điện chạy qua mạch mắc song song”. - Ta có: 𝐴 = 𝐴1𝐴2𝐴3, �̅� = 𝐴1̅̅ ̅. 𝐴2̅̅ ̅. 𝐴3̅̅ ̅. a) Vì các biến cố 𝐴𝑖 là độc lập nên xác suất của biến cố 𝐴 là: 𝑃(𝐴) = 𝑃(𝐴1). 𝑃(𝐴2). 𝑃(𝐴3) = (1 − 0,01)(1 − 0,015)(1 − 0,025) ≈ 0,951 b) Vì các biến cố 𝐴𝑖 là độc lập nên các biến cố 𝐴�̅� độc lập. Xác suất của biến cố 𝐵 là: 𝑃(𝐵) = 1 − 𝑃(�̅�) = 1 − 𝑃(𝐴1̅̅ ̅). 𝑃(𝐴2̅̅ ̅). 𝑃(𝐴3̅̅ ̅) = 1 − 0,01.0,015.0,025 = 0,99999625. Tình huống 4. Một cặp vợ chồng muốn sinh 3 người con. Họ muốn biết khả năng sinh được cả trai và gái là bao nhiêu, khả năng sinh được 2 và 1 gái, là bao nhiêu để có kế hoạch sinh hợp lý. Thiết lập bài toán xác suất trong trường hợp này như thế nào? Ví dụ 4.4. Một cặp vợ chồng dự kiến sinh 3 người con. a) Nếu họ muốn sinh 2 người con trai và 1 người con gái thì khả năng thực hiện mong muốn đó là bao nhiêu? 41 b) Tìm xác suất để trong 3 lần sinh họ có được cả trai và gái. Ở đây học sinh phải nắm được mỗi lần sinh là một sự kiện độc lập và có hai khả năng xảy ra: trai hay gái với xác suất bằng nhau và bằng 1 2 . Lời giải: - Số khả năng xảy ra trong 3 lần sinh là: 2.2.2 = 8. a) Có 3 trường hợp sinh 2 trai, 1 gái là: TTG, TGT, GTT. - Xác suất để cặp vợ chồng thực hiện được mong muốn là: 𝑃 = 3 8 . b) Xác suất sinh 1 trai, 2 gái là: 𝑃 = 3 8 . - Xác suất sinh có cả trai và gái là: 𝑃 = 3 8 + 3 8 = 3 4 . Tình huống 5. Dịch bệnh Covid – 19 là vấn đề đang được toàn thế giới quan tâm trong những năm gần đây. Đã có nhiều bài toán trong các đề thi đã đề cập đến nhiều vấn đề xung quanh tình hình đó như đề thi vào 10 Nghệ An năm học 2020 – 2021, đề thi học sinh giỏi tỉnh Nghệ An năm học 2021 – 2022. Qua đó học sinh thấy được rằng toán học không xa rời thực tiễn, nó gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Ví dụ 4.5. (Đề thi học sinh giỏi lớp 12 tỉnh Nghệ An năm học 2021 – 2022) Trong quá trình truy vết lịch sử tiếp xúc của bệnh nhân Covid – 19 ở một trường học, trung tâm y tế xác định được 3 giáo viên và một số học sinh có sự liên quan đến bệnh nhân đó. Người ta chọn ngẫu nhiên 10 người trong số các giáo viên và học sinh liên quan để làm xét nghiệm gộp. Biết rằng xác suất để trong 10 người được chọn có 3 giáo viên bằng 6 lần xác suất trong 10 người được chọn đều là học sinh. Tính xác suất để trong 10 người được chọn làm xét nghiệm có nhiều nhất 2 giáo viên. Lời giải: - Gọi số học sinh liên quan đến bệnh nhân Covid – 19 là 𝑛(𝑛 ≥ 10). - Ta có: 𝑛(Ω) = 𝐶𝑛+3 10 . - Xác suất để chọn 10 người trong đó có 3 giáo viên bằng: 𝐶3 3. 𝐶𝑛 7 𝐶𝑛+3 10 = 𝐶𝑛 7 𝐶𝑛+3 10 - Xác suất để chọn 10 người đều là học sinh là: 𝐶𝑛 10 𝐶𝑛+3 10 - Theo bài ra ta có: 42 𝐶𝑛 7 𝐶𝑛+3 10 = 6. 𝐶𝑛 10 𝐶𝑛+3 10 ⇔ 𝐶𝑛 7 = 6. 𝐶𝑛 10 ⇔ 𝑛! 7! (𝑛 − 7)! = 6. 𝑛! 10! (𝑛 − 10)! ⇔ 1 (𝑛 − 7)(𝑛 − 8)(𝑛 − 9) = 6 8.9.10 ⇔ (𝑛 − 7)(𝑛 − 8)(𝑛 − 9) = 120 = 6.5.4 ⇒ 𝑛 = 13. - Vậy xác suất để trong 10 người được chọn có nhiều nhất 2 giáo viên là: 𝑃 = 1 − 𝐶13 7 𝐶13 10 = 11 14 Các ví dụ trên phần nào giúp học sinh thấy được ứng dụng của toán học trong thực tiễn, là công cụ đắc lực để giúp các em giải quyết nhiều tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Từ đó, học sinh sẽ có động lực khám phá thêm thêm các ứng dụng khác của toán học trong thực tiễn, góp phần phát triển năng lực vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn. C. KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG VÀ TRIỂN KHAI KẾT QUẢ CỦA ĐỀ TÀI. 1. Khả năng ứng dụng của sáng kiến kinh nghiệm - Nhằm mục đích phát triển năng lực học sinh nói chung và giúp học sinh học tập tốt phần kiến thức chủ đề Tổ hợp - Xác suất nói riêng, bản thân tôi thấy sáng kiến kinh nghiệm này là một tài liệu bổ ích cho các thầy cô giáo và các em học sinh. - Trong quá trình giảng dạy phần kiến thức về Tổ hợp - Xác suất, các giáo viên cần nâng cao tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh, rèn luyện cho học sinh có khả năng phân tích, suy luận để giải quyết vấn đề và phát hiện những bài toán mới từ các bài toán đã có và tạo ra các bài toán mới từ phương pháp giải loại toán đó. Đặc biệt, người giáo viên phải giảng dạy cho học sinh cần nắm chắc bản chất của vấn đề trong mỗi bài toán, từ đó biết vận dụng, liên hệ giữa các kiến thức mới với các kiến thức đã học với thực tiễn cuộc sống. Từ đó giúp các em giải quyết các bài toán tổ hợp, xác suất một cách linh động, hơn nữa cho các em sáng tạo ra các bài toán mới từ các phương pháp giải, các bài cơ bản đã có. Điều này sẽ nâng cao năng lực tự học của các em. - Sáng kiến kinh nghiệm này có thể áp dụng giảng dạy cho hầu hết các đối tượng học sinh ở các mức độ khác nhau. Tuy nhiên, nội dung chủ yếu của sáng kiến kinh nghiệm này hướng đến các học sinh có học lực khá, giỏi, các học sinh có khả năng vận dụng kiến thức đã học để giải toán. 2. Thực nghiệm sư phạm 43 Trong năm học 2021 – 2022 tôi đã tiến hành tìm hiểu và triển khai SKKN này trong việc giảng dạy chủ đề Tổ hợp - Xác suất cho học sinh lớp 11 tại trường THPT Nghi Lộc 3. Nội dung của đề tài được lồng ghép ngay từ các tiết dạy lí thuyết, tiết luyện tập, tiết ôn tập và bồi dưỡng học sinh giỏi theo từng mức độ khác nhau. Năm học vừa qua, tôi đã thực nghiệm đề tài này tại lớp 11A, 11D2 và chọn lớp 11A1, 11D3 có lực học tương đương làm nhóm đối chứng tại trường THPT Nghi Lộc 3. Với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong nhóm chuyên môn, sau khi thực nghiệm đề tài chúng tôi đã tiến hành kiểm tra đánh giá hiệu quả của đề tài. Kết quả thu được qua bài kiểm tra về năng lực phân tích bài toán, năng lực giải, năng lực phát triển bài toán của học sinh như sau: Thông qua các phiếu điều tra thăm dò ý kiến của học sinh, tôi thu được kết quả là hầu hết các em thích thú hơn khi được học mà có áp dụng đề tài và các em cảm thấy tự tin hơn khi giải toán, biết suy luận theo các hướng khác nhau trước một bài toán để giải quyết vấn đề, đồng thời cũng biết cách tìm ra bản chất trong các bài toán đã cho để có thế sáng tạo ra bài toán mới. Quá trình thực nghiệm cùng những kết quả rút ra sau thực nghiệm cho thấy: mục đích thực nghiệm đã được hoàn thành, tính khả thi và hiệu quả của các quan điểm đã được khẳng định. Thực hiện các biện pháp đó sẽ góp phần phát triển các năng lực toán học nói chung và đặc biệt là năng lực tư duy và lập luận toán học. Đặc biệt là dạy chủ đề Tổ hợp - Xác suất theo định hướng phát triển năng lực đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán ở trường Trung học phổ thông và hơn thế nữa đã rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập và linh hoạt hơn trong cách xử lý công việc sau này. Lớp Sĩ số Phân tích được Giải được Phát triển bài toán SL TL(%) SL TL(%) SL TL(%) 11A(TN) 45 40 80 38 84,4 19 42,2 11A1 43 32 74,4 27 62,8 2 0,05 11D2(TN) 44 25 56,8 20 45,5 2 0,05 11D3 43 12 27,9 5 11,6 0 0 44 PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận trong quá trình nghiên cứu, triển khai SKKN Sau một thời gian đưa vào áp dụng giảng dạy cho học sinh trường THPT Nghi Lộc 3, tôi thu được những kết quả tích cực sau: - Đề tài góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về dạy học phát triển năng lực học sinh đặc biệt là năng lực tư duy và lập luận toán học của học sinh THPT. - Đề tài đã đề ra các giải pháp phát triển năng lực tư duy và lập luận toán học thông qua dạy học chủ đề Tổ hợp – Xác suất; phân tích các phương pháp giải bài tập Tổ hợp - Xác suất và cách tạo ra bài toán mới từ phương pháp giải, đưa ra các ví dụ có tác dụng rèn luyện năng lực phân tích, suy luận, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực phân chia trường hợp, năng lực tính toán, năng lực sử dụng máy tính và năng lực giải các bài toán thực tiễn. - Đề tài tạo cho học sinh có thói quen phân tích bài toán, tổng quát bài toán và tìm ra dấu hiệu bản chất của các bài toán, biết được bài toán trong các đề thi do đâu mà có và người ta đã tạo ra chúng bằng cách nào. Với cách làm đó, các em dễ có cái nhìn tổng quan hơn trước một bài toán hay trước khi giải quyết một vấn đề, tránh tính trạng học sinh lao ngay vào bài toán mà không có sự dự liệu hay phân tích một cách khoa học từ trước. - Đề tài củng cố các phương pháp giải toán, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, giúp các em không còn lúng túng trước một bài toán được đặt ra. - Thông qua sáng kiến kinh nghiệm này, học sinh sẽ thấy được sự liên hệ giữa các phần kiến thức toán học với nhau, giữa các kiến thức toán và các môn học khác, giữa toán học và thực tiễn; qua đó sẽ nắm vững các kiến thức mà các em được học, điều này sẽ tạo hứng thú và yêu thích môn toán hơn. Hơn nữa, nó cũng là phương pháp tốt cho các em phát huy năng lực tự học. - Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, tổng kết kinh nghiệm và thông qua dạy thử nghiệm có thể khẳng định được tính khả thi và tính hiệu quả của các biện pháp đã đề xuất. 2. Kiến nghị và đề xuất - Đề tài này chỉ mới khai thác một phần chủ đề Tổ hợp - Xác suất theo định hướng phát triển năng lực. Tuy nhiên, thông qua cách làm này, nếu chúng ta tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu các năng lực có thể rèn luyện cho học sinh qua học chủ đề Tổ hợp - Xác suất, sẽ đem lại hiệu quả tốt cho việc dạy học và giáo dục học sinh. - Từ một bài toán nếu có thể phân tích, dẫn dắt để giải được các bài toán và tạo bài mới từ phương pháp giải bài toán đó hay tích hợp các phương pháp luôn có tác dụng lớn đối với học sinh, đặc biệt là học sinh khá giỏi. Kinh nghiệm cho thấy học sinh hứng thú tìm hiểu các vấn đề đơn giản từ đó xây dựng lên mảng kiến thức lớn hơn nhiều so với việc giải quyết các bài toán khó. Vì thế trong quá trình giảng 45 dạy giáo viên cần nâng cao tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh để các em phát huy tối đa năng lực tự học. Cần hướng dẫn cho học sinh cách thức sáng tạo ra các vấn đề mới từ các vấn đề đã biết. Quy lạ về quen, từ dễ đến khó sẽ hiệu quả hơn là cho các em “cày” những bài toán khó ngay từ đầu. Bởi vì hiện tượng học sinh giỏi không giải được bài toán cơ bản đã không còn là chuyện lạ. - Trong chương trình sách giáo khoa Toán THPT lượng bài tập tổ hợp, xác suất đòi hỏi khả năng tư duy của học sinh còn ít, chủ yếu tập trung vào các bài tập cơ bản, chỉ áp dụng công thức nên chưa phát huy được khả năng tư duy của học sinh. Vì vậy tôi nghĩ rằng người giáo viên cần khai thác từ các bài tập cơ bản, khai thác từ phương pháp giải để tạo ra các dạng toán mới đòi hỏi khả năng tư duy của học sinh nhằm phát triển năng lực và gây hứng thú cho người học trong quá trình dạy và học toán sẽ góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. - Mặc dù đã cố gắng tìm tòi, nghiên cứu song đề tài này chắc chắn còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. 46 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Đại số và Giải tích 11 (cơ bản và nâng cao), Bộ Giáo dục. 2. Sách bài tập Đại số và Giải tích 11 (cơ bản và nâng cao), Bộ Giáo dục. 3. Sách giáo khoa Hình học 10 (cơ bản và nâng cao), Bộ Giáo dục 4. Nguyễn Bá Kim (2004), Phương pháp dạy học môn toán, NXB ĐHSP Hà Nội 5. Tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh. 6. Đề thi học sinh giỏi tỉnh Nghệ An và các tỉnh khác. 7. Đề thi thử THPT của các trường THPT trên cả nước. 8. Nguồn tài liệu internet. 9. Dự thảo chương trình tổng thể môn Toán, Bộ Giáo dục, 2018.
File đính kèm:
skkn_gop_phan_hinh_thanh_va_phat_trien_nang_luc_tu_duy_va_la.pdf

