Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Trong bối cảnh toàn cầu hoá hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ đạt những bước tiến thần kỳ, khối lượng thông tin, tri thức nhân loại tăng theo hàm số mũ, hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới đều nhận thức giáo dục và đào tạo trở thành nhân tố vừa là nền tảng, vừa là động lực góp phần quyết định tương lai của mỗi dân tộc. Với ý nghĩa đó, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển, được ưu tiên đi trước trong các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình, của các lực lượng xã hội.

Để thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước vềđịnh hướng chiến lược phát triển GD&ĐT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Hội nghị lần thứ VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 29-NQ/TW “Về đổi mớicăn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”;Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông. Mục tiêu chương trình giáo dục phổ thông được xác định: “Chương trình giáo dục phổ thông nhằm giúp học sinh phát triển khả năng vốn có của bản thân, hình thành tính cách và thói quen, phát triển hài hòa về thể chất và tinh thần; trở thành người học tích cực, tự tin, có ý thức lựa chọn nghề nghiệp và học tập suốt đời, có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân có trách nhiệm, người lao động cần cù, có tri thức và sáng tạo”.

docx 54 trang Hương Thủy 05/10/2025 180
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”

Sáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
c, hiểu mối liên hệ giữa kiến thức và thực tiễn, đồng thời với câu hỏi chưa trả lời được như trên làm cho học sinh hứng thú và cố gắng tìm tòi lời giải trong quá trình học bài mới.
Hoạt động 3: Tiến hành thực nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu
Giáo viên hướng dẫn học sinh nghiên cứu, tìm tòi kiến thức mới.
Hoạt động 4: Kết luận kiến thức mới Hoạt động 5: Vận dụng và mở rộng
Sau khi đã học xong phần kiến thức về hình nón, học sinh có thể tự giải quyết vấn đề ban đầu. Để tìm được diện tích của mặt nón, học sinh cần phải tìm được độ dài đường sinh.
Theo đề bài, có tất cả 16 vành nón và đỉnh nón, để xếp 16 vành nón này vào khung theo thứ tự thì cần xếp chúng như thế nào?
482 + 252
(Xếp cách đều nhau một khoảng là 3cm). Vậy có tất cả là 16 khoảng cách. Từ đó, tính được đường cao của chiếc nón lá có độ dài là 48cm.
Theo định lý Pitago, độ dài đường sinh:
l =
» 54,12cm
Cả hai nhóm đối chiếu kết quả bằng thực nghiệm và bằng suy luận toán học để kết luận kết quả. Sau đó, tính diện tích bề mặt của chiếc nón lá:
Suy ra diện tích bề mặt của chiếc nón lá (Diện tích xung quanh hình nón):
S = p rl = p.25.54,12 » 4250,57cm2
Ví dụ 9. Dạy học các nội dung về “Mặt trụ tròn xoay” (Hình học lớp 12)
Hoạt động 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề
Một con đường ở trường Đại học Đồng Tháp có thiết kế như hình sau:
Mỗi vòng cung (cung tròn trên mặt đất) được làm từ những thanh thép tròn, khoảng cách giữa hai chân của mỗi vòng cung là 2,4m, tính từ mặt đất đến điểm cao nhất của vòng cung là 2,4m.
Nếu dùng những tấm bạt che phủ toàn bộ phía trên của con đường (phần phía trên mặt đất) dài 0,5m thì diện tích bạt cần dùng là bao nhiêu mét vuông?
Hoạt động 2: Bộc lộ quan điểm ban đầu của học sinh
Giáo viên gợi ý học sinh bằng các câu hỏi:
H1. Con đường trên có dạng hình gì?
H2. Muốn tính diện tích bạt cần che phủ ta phải tính toán những yếu tố nào?
Giáo viên hướng dẫn học sinh để dẫn dắt vào vấn đề cần nghiên cứu trong bài mới.
Hoạt động 3: Tiến hành thực nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu
Hoạt động chủ đạo là “Tập làm thợ thủ công” với đồ dùng dạy học là “đất sét nặn”. Mục đích của hoạt động này giúp học sinh hiểu về kiến thức mặt trụ tròn xoay, hình trụ, khối trụ, cũng như việc tính toán các yếu tố có liên quan, đồng thời, giúp học sinh khám phá những kiến thức này một cách tự nhiên, hiểu sự tồn tại của chúng trong đời sống thực tiễn, hiểu được ý nghĩa thực tế của chúng. Hoạt động này được chia thành nhiều hành động.
Hành động 1: Dùng dụng cụ được chia cho từng nhóm, mỗi nhóm nặn đất sét thành những hiện vật được nhìn thấy, chúng có thể là một đoạn ống nước, một lon sữa bò, một cái cốcQua hành động này, học sinh có thể hình thành sơ bộ về mặt trụ tròn xoay, hình trụ, khối trụ.
Hành động 2: Dùng mặt phẳng (dao cắt đất) chia đoạn ống nước thành hai phần bằng nhau theo chiều đứng. Nêu nhận xét về mặt cắt, trục của đồ vật. Đồng thời, có thể kết hợp với các phần mềm vẽ hình, giúp học sinh hiểu được các định nghĩa khái niệm mặt trụ tròn xoay, hình trụ, khối trụ.
Hành động 3: Trải hình lon sữa bò lên mặt phẳng (lon sữa bò bằng đất sét mà học sinh đã nặn). Đo diện tích của lon sữa bò được trải ra. Học sinh sẽ tính được diện tích xung quanh của hình trụ.
Hành động 4: Yêu cầu học sinh tính thể tích nước mà lon sữa bò có thể chứa được. Từ đó học sinh đã tự tìm được cách tính thể tích của khối trụ.
Hình ảnh học sinh nặn đất sét Hình ảnh HS trải lon sữa bò bằng đất sét đã nặn
Hoạt động 4: Kết luận kiến thức mới Hoạt động 5: Tìm tòi, mở rộng
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh giải quyết một số tình huống trong thực tiễn như sau:
Tình huống 1: Một chiếc chăn cho bé có chiều dài 1,2m; chiều rộng 0,8m; bề dày 0,3cm. Gấp đôi chăn theo chiều dài hai lần và cuộn tròn lại (Giả sử độ đàn hồi của chăn không đáng kể).
Hỏi:
Cuộn bao nhiêu vòng thì cuộn xong chiếc chăn.
Dùng bao nilon để bọc vừa khít cuộn chăn nêu trên thì túi nilon đó phải có thể tích thực chứa ít nhất là bao nhiêu.
Lời giải:
Gấp đôi chăn theo chiều dài hai lần, lúc này chiều dài chỉ còn lại 30cm, bề dày tăng lên thành 1,2cm. Khi đó, ta cuộn chăn lại thì bán kính của vòng tròn đầu tiên sẽ là R1 = 1, 2cm , tương ứng với chu vi của vòng tròn đầu tiên là C1 = 2p R1 = 2p.1, 2 . Bán kính
đường tròn thứ hai sẽ lớn hơn bán kính đường tròn thứ nhất một khoảng là 1,2cm. Tương tự như vậy, cứ mỗi đường tròn được cuộn sau đó sẽ có bán kính lớn hơn đường tròn liền trước đó một khoảng bằng 1,2cm. Nói cách khác, các bán kính của
những đường tròn này lập thành một cấp số cộng có số hạng đầu u1 = R1 = 2
và công
sai
d = 1, 2 .
Gọi n là số vòng tròn cuộn xong chiếc chăn (n là số dương), khi đó ta có:
C1 + C2 +... + Cn = 80 Û 2p (R1 + R2 +...+ Rn ) = 80
Û 2p (nR + n(n -1) .1, 2) = 80 Û 0, 6n2 +1, 4n - 40 = 0
1	2	p
Giải phương trình trên, ta tìm được phải là số dương.
n » 3, 6 ;
n » -5, 9 . Ta chọn
n » 3, 6
vì n
Thể tích của cuộn chăn khi cuộn đến vòng thứ 3:
V = B.h = p.R2.30 = p.3, 62.30 » 1221, 45
1	3
Thể tích của cuộn chăn khi cuộn đến vòng thứ 4:
V = B.h = p.R2.30 = p.4,82.30 » 2171, 47
2	4
Thể tích thực của cuộn chăn:
V = V1 + (3, 6 - 3)(V2 -V1) = 1221, 45 + 0, 6(2171, 47 -1221, 45) = 1791, 462
Vậy, thể tích thực chứa ít nhất của bao nilon là 1791,462 cm3.
Tình huống 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề trong tình huống xuất phát ban đầu với các câu hỏi trắc nghiệm sau đây:
Câu hỏi 1: Quan sát và cho biết, con đường trên có dạng hình gì?
Một phần của hình trụ tròn xoay
Hình lăng trụ
Hình tròn
Hình trụ tròn xoay
Câu hỏi 2: Độ dài của mỗi vòng cung là:
6,643m
2,782m
1,391m
8,034m
Câu hỏi 3: Nếu dùng những tấm bạt che phủ toàn bộ phía trên của con đường (phần hình trụ trên mặt đất) dài 0,5m thì diện tích bạt cần dùng là:
3321,5m2
1391m2
695,5m2
4017m2
Đối với câu hỏi 2 và 3, học sinh có thể suy luận như sau:
Xét tam giác IMB vuông tại I, ta có:	MB2 = IM 2 + IB2 = 2, 42 +1, 22 = 7, 2
MB2 + NB2
Xét tam giác NMB vuông tại B với IB là đường cao:
1
NB2
= 1
IB2
-	1
MB2
= 1
1, 22
-	1
7, 22
= 5 Þ NB2 = 9
9	5

Þ MN =	= 3
Xét tam giác IOB vuông tại I, ta có: sin ÐIOB = IB = 4
OB	5
Þ Số đo của cung tròn (phần trên mặt đất): a = 2p - 2.ÐIOB » 1, 4.p
Þ Độ dài cung tròn (độ dài của mỗi vòng cung): l = R.a = 1, 5.1, 4p » 6, 643
Từ kết quả trên, suy ra phần diện tích bạt cần dùng: S = 500.6, 643 = 3321, 5
CHƯƠNG IV
KHẢO SÁT SỰ CẤP THIẾT VÀ TÍNH KHẢ THI CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐỀ XUẤT
Mục đích khảo sát
Tìm hiểu về phương pháp và cách thức tổ chức hoạt động dạy học một số nội dung hình học cho học sinh bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”
Nội dung và phương pháp khảo sát
Nội dung khảo sát
Nội dung khảo sát tập trung vào 2 vấn đề chính sau:
Phương pháp được đề xuất có thực sự cấp thiết đối với vấn đề nghiên cứu hiện nay không
Phương pháp được đề xuất có khả thi đối với vấn đề nghiên cứu hiện tại không ?
Phương pháp khảo sát và thang điểm đánh giá
Phương pháp được sử dụng để khảo sát là Trao đổi bằng bảng hỏi, với thang điểm đánh giá 04 mức (tương đương điểm số từ 1 đến 4). Cụ thể:
- Đánh giá mức độ cấp thiết đối với vấn đề nghiên cứu:
TT
Mức độ
Thang điểm đánh giá
1
Không cấp thiết
1
2
Ít cấp thiết
2
3
Cấp thiết
3
4
Rất cấp thiết
4

Đánh giá mức độ khả thi đối với vấn đề nghiên cứu:
TT
Mức độ
Thang điểm đánh giá
1
Không khả thi
1
2
Ít khả thi
2
3
Khả thi
3
4
Rất khả thi
4

Tính điểm trung bình X theo phần mềm Excel.
Quy ước thang đo: Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá và phân tích dữ liệu một cách hợp lí và khoa học, thông tin thu thập được từ kết quả khảo sát quy ước dựa vào giá trị trung bình trên thang đo với giá trị khoảng cách bằng (điểm tối đa – điểm tối thiểu)/ n = (4 -1)/4 =0.75, vậy ý nghĩa của các mức tương ứng với bản dưới đây:
Quy ước xử lí thông tin phiếu khảo sát
Điểm quy ước
1
2
3
4
Mức độ
Không cấp thiết
Ít cấp thiết
Cấp thiết
Rất cấp thiết
Điểm trung bình
1.0 - 1.75
1.75 - 2.5
2.5 - 3.25
3.25 - 4.0
Mức độ
Không khả thi
Ít khả thi
Khả thi
Rất khả thi
Điểm trung bình
1.0 - 1.75
1.75 - 2.5
2.5 - 3.25
3.25 - 4.0

Đối tượng khảo sát
Giáo viên dạy bộ môn Toán, học sinh một số lớp thuộc các trường THPT trên địa bàn huyện Diễn Châu.
Tổng hợp các đối tượng khảo sát
TT
Đối tượng
Số lượng
1
Giáo viên
30
2
Học sinh
250

å
280
Kết quả khảo sát về sự cấp thiết và tính khả thi của phương pháp đã đề xuất
Kết quả khảo sát dành cho giáo viên
Câu 1: Khi dạy học Hình học Thầy (Cô) có quan tâm đến việc tổ chức các hoạt động nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh không ?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

30
a. Thường xuyên quan tâm
27
90
b. Ít quan tâm
3
10
c. Chưa quan tâm
0
0
d. Không quan tâm
0
0
Câu 2: Thầy (Cô) nhận thấy tầm quan trọng của việc tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh là như thế nào ?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

30
a. Rất quan trọng
20
67
b. Quan trọng
10
33
c. Không quan trọng
0
0
Câu 3: Thầy (Cô) đã từng sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học Hình học cho học sinh THPT chưa?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

30
a. Thường xuyên thực hiện
5
17
b. Đã từng thực hiện
15
50
c. Chưa từng thực hiện
10
33
Câu 4: Thầy (Cô) đánh giá như thế nào về mức độ tham gia vào việc học tập của học sinh theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” mà Thầy (Cô) đã sử dụng trong khi dạy học?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

20
a. Tất cả HS đều tham gia
8
40
b. Đa số HS tham gia
9
45
c. Rất ít HS tham gia
3
15
d. HS không tham gia
0
0

Câu 5: Thầy (Cô) đánh giá như thế nào về hiệu quả khi tổ chức dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

20
a. Rất hiệu quả
11
55
b. Hiệu quả
7
35
c. Tương đối hiệu quả
2
10
d. Không hiệu quả
0
0
Câu 6: Thầy (Cô) đánh giá thế nào về tính cấp thiết khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học Hình học?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

30
a. Rất cấp thiết
23
77
b. Cấp thiết
7
23
c. Ít cấp thiết
0
0
d. Không cấp thiết
0
0
Câu 7: Thầy (Cô) đánh giá thế nào về tính khả thi khi sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học Hình học?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số GV chọn
Tỉ lệ %

30
a. Rất khả thi
25
83
b. Khả thi
5
17
c. Ít khả thi
0
0
d. Không khả thi
0
0
Kết quả khảo sát dành cho học sinh
Câu 1: Em có thích học Hình học không?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Thích
67
27
b. Không thích
81
32
c. Chưa thích
102
41

Câu 2: Các kiến thức Hình học rất khó học và khó nhớ.
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Rất đồng ý
47
19
b. Đồng ý
107
43
c. Chưa đồng ý
57
23
d. Không đồng ý
39
16
Câu 3: Trong quá trình dạy học nội dung Hình học, sự tiếp xúc giữa giáo viên và học sinh là rất thường xuyên.
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Rất đồng ý
35
14
b. Đồng ý
155
62
c. Chưa đồng ý
52
21
d. Không đồng ý
8
3
Câu 4: Đối với nội dung Hình học em thích học theo cách thức nào?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Học theo nhóm
92
37
b. Cá nhân
40
16
c. Tùy từng nội dung
118
47

Câu 5: Em thích thú với việc học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” mà giáo viên đã áp dụng không?
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Thích
201
80
b. Không thích
30
12
c. Chưa thích
19
8

Câu 6: Em đánh giá thế nào về tính cấp thiết khi dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Rất cấp thiết
187
75
b. Cấp thiết
58
23
c. Ít cấp thiết
5
2
d. Không cấp thiết
0
0
Câu 7: Em đánh giá thế nào về tính khả thi khi dạy học Hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”.
Tổng số phiếu
Nội dung
Số HS chọn
Tỉ lệ %

250
a. Rất khả thi
192
77
b. Khả thi
55
22
c. Ít khả thi
3
1
d. Không khả thi
0
0
Sự cấp thiết của phương pháp đã đề xuất
Đánh giá sự cấp thiết của các giải pháp đã đề xuất
TT
Phương pháp
Các thông số

X
Mức
1
Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học hình học bằng phương pháp “Bàn tay
nặn bột”

3,73

Rất cấp thiết

Từ số liệu ở bảng trên có thể rút ra những nhận xét: Việc đổi mới phương pháp dạy học nói chung, sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” nói riêng trong dạy học nhằm phát triển phẩm chất, năng lực cho học sinh là điều quan trọng và cần thiết phải thực hiện trong giai đoạn hiện nay.
Tính khả thi của phương pháp đề xuất
Đánh giá tính khả thi của phương pháp đề xuất
TT
Phương pháp
Các thông số

X
Mức
1
Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học hình học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột”

3,76

Rất khả thi

Từ số liệu ở bảng trên có thể rút ra những nhận xét: Việc sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học các môn khoa học nói chung, môn hình học nói riêng hoàn toàn có thể thực hiện được ở nhiều nội dung, nhiều bài học. Nếu biết cách lựa chọn nội dung phù hợp để triển khai vừa giúp học sinh phát triển phẩm chất, năng lực, vừa giúp các em thấy được mối quan hệ giữa các kiến thức toán học với thực tiễn, làm cho các em yêu thích môn học hơn, đồng thời, việc tìm tòi, phát hiện kiến thức mới thông qua một số hoạt động thực nghiệm giúp các em nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, năng lực tự học, tự khám phá. Việc sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong dạy học hình học nhằm phát huy tính tích cực học tập cho học sinh là rất khả thi, đem lại nhiều kết quả tích cực trong hoạt động dạy học của cả thầy và trò.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Bàn tay nặn bột là một phương pháp dạy học mới, hiện nay giáo viên các trường học trên các địa bàn có thế mạnh và thuận lợi là tuổi đời trẻ, năng động, sáng tạo trong giảng dạy, có nhiều kĩ năng dạy học tích cực và ứng dụng công nghệ thông tin, cũng như sử dụng tốt trang thiết bị dạy học vào các tiết học. Tất cả những thế mạnh, kĩ năng đó đều rất cần thiết cho áp dụng phương pháp BTNB vào giảng dạy.
Phương pháp BTNB thực ra không hoàn toàn là mới đối với các giáo viên. Về cơ bản, đây là phương pháp tổng hợp của các phương pháp dạy học trước đây mà giáo viên đã từng tiếp xúc như: phương pháp giảng dạy giải quyết vấn đề, phương pháp dạy học tích cực...
Trong phương pháp BTNB, yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là tạo tình huống để học sinh phát hiện ra vấn đề trong bài học, từ đó để các em tự đưa ra các tình huống giải quyết vấn đề để đi đến kết quả.
Phương pháp BTNB là phương pháp giúp tạo lập cho học sinh thói quen làm việc như các nhà khoa học và niềm say mê sáng tạo phát hiện, giải quyết vấn đề. Mục tiêu này rất quan trọng bởi trong cuộc sống các em gặp phải rất nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Do vậy giáo viên phải là người hướng dẫn cho học sinh kĩ năng tự mình phát hiện và giải quyết vấn đề ngay từ khi đang ngồi trên ghế nhà trường.
Về các khó khăn mà các giáo viên nêu, đây là những khó khăn trước mắt, hoàn toàn có thể khắc phục trong quá trình ứng dụng phương pháp BTNB vào giảng dạy.
Theo đánh giá, trong tiết học dạy bằng phương pháp BTNB, học sinh say mê nghiên cứu, thảo luận theo nhóm và rất hứng thú với phương pháp này.
Như vậy việc vận dụng phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học môn toán là cần thiết, và thiết thực trong đổi mới phương pháp dạy học.
Nghệ An, tháng 4 năm 2023
Tác giả

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_phat_huy_tinh_tich_cuc_hoc_tap_cho_hoc.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Phát huy tính tích cực học tập cho học sinh thông qua dạy học Hình học bằng ph.pdf