Sáng kiến kinh nghiệm Một số sai lầm học sinh thường gặp khi giải toán Đại số 8
1. Lí do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, Toán học là ngôn ngữ chung của vũ trụ. Toán học là một môn khoa học đặc biệt quan trọng trong mọi lĩnh vực. Con người chúng ta trong bất kì hoàn cảnh nào cũng không thể thiếu kiến thức về toán. Nghiên cứu về toán cũng chính là nghiên cứu một phần của thế giới. Các kiến thức và phương pháp toán học là công cụ hỗ trợ đắc lực giúp HS học tốt các môn học khác, hoạt động có hiệu quả trong mọi lĩnh vực. “Dù các bạn có phục vụ ngành nào, trong công tác nào thì kiến thức và phương pháp toán học cũng cần cho các bạn” (Phạm Văn Đồng ). Đồng thời môn Toán còn giúp HS phát triển những năng lực và phẩm chất trí tuệ; rèn luyện cho HS tư tưởng đạo đức và thẩm mĩ của người công dân.
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự nghiệp giáo dục cũng đổi mới không ngừng. Các nhà trường càng chú trọng đến chất lượng toàn diện bên cạnh sự đầu tư thích đáng cho giáo dục. Để đào tạo ra những con người nghiên cứu về Toán học thì trước hết phải đào tạo ra những con người có kiến thức vững vàng về môn toán. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, lâu dài đối với ngành Giáo dục và đào tạo.
Trong chương trình bộ môn Toán THCS, phân môn Đại số là môn học đặc biệt quan trọng, dùng định nghĩa, tính chất và các qui tắc để chứng minh, tính toán.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số sai lầm học sinh thường gặp khi giải toán Đại số 8

c). Chính vì vậy GV cần tìm nhiều bài tập thuộc một dạng để HS nhớ lâu, củng cố lí thuyết được bền vững là rất cần thiết. Toán học là một môn học rất cần thiết thực hành – giải bài tập, luôn luôn phải có sự kết hợp với nhau giữa lí thuyết và thực hành. Qua thực hành mới củng cố được lí thuyết, khắc sâu kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán và phát triển tư duy. Ở lớp sau khi học phần lí thuyết thì có phần áp dụng kiến thức, thực hành các bài tập trong sách giáo khoa. Hệ thống bài tập này đa số chỉ áp dụng cho HS từ TB trở lên do đó việc luyện tập, hệ thống bài tập cho HS yếu tập làm quen từ những bài tập rất dễ để từng bước nâng dần giải những bài tập khó hơn. Vì vậy trong từng tiết dạy người GV có thể ra thêm bài tập tùy tình hình lớp học để HS có điều kiện tiếp xúc với khâu thực hành và nội dung bài tập phong phú hơn. Chẳng hạn khi dạy bài: “Những hằng đẳng thức dáng nhớ”, cần có lượng bài tập thật nhiều để qua bài tập HS mới được khắc sâu kiến thức. Nếu các em ít giải bài tập, ngại thực hành thì chắc chắn các em không nhạy bén, vận dụng lí thuyết ít được linh hoạt vào giải bài tập. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến đợt kiểm tra, đợt thi, làm giảm sút chất lượng trầm trọng. GV cho HS tự xây dựng kế hoạch tập tại nhà và tình hình tự làm bài tập, hoặc học nhóm tại nhà. Từ các bài giải tại nhà, GV có thể đánh giá được sự phát triển học toán của em đó. Uốn nắn kịp thời các bài giải sai, điều chỉnh các bài còn thiếu sót ở các bước làm. * Biện pháp 4: GV phải đổi mới phương pháp dạy học, tạo hứng thú cho các em học tập tích cực. GV phải tập trung vào việc làm sao cho học trò hoạt động tư duy càng nhiều càng tốt. Thầy chỉ là người tổ chức, trọng tài cho các nhóm làm việc, HS tranh luận chất vấn nhau nếu có điểm tranh cãi chưa ngã ngũ thì thầy giáo sẽ là người giúp HS giải quyết. Đó là kiểu dạy lấy người dạy làm trung tâm, kiểu học lấy việc tự học có hướng dẫn làm chính. GV cần phát huy tối đa hoạt động tư duy tích cực, chủ động, sáng tạo của HS bằng các tình huống để các em dự đoán nên giả thuyết tranh luận giữa những ý kiến trái ngược Trong mỗi tiết dạy, ngoài gọi những em giơ tay phát biểu, GV cần bao quát lớp, có thể gọi những HS yếu hoặc HS không chú ý (mặc dù các em làm sai) để các em tập trung vào bài học hơn và có lỗi sai để GV có thể chỉnh sửa, uốn nắn kịp thời. Khi các em lên bảng làm xong một bài toán GV cần cho HS dưới lớp nhận xét, nếu có lỗi sai GV cần chỉ rõ và nhấn mạnh trong bài làm này đã sai những lỗi gì, nguyên nhân của sai lầm đó để HS chú ý và tránh lặp lại những sai lầm đó. Bên cạnh đó việc soạn giảng trên phần mềm Power Point, Lecter Maker ... có sử dụng phim (video), hình ảnh, đồ họa, hoạt hình và việc kết hợp sử dụng ĐDDH trong các giờ hoạt động trên lớp góp phần không nhỏ cho thành công của tiết dạy học. Vì nó là những hình ảnh trực quan sinh động giúp HS hứng thú, tiếp thu bài tốt, nên các lỗi sai sẽ giảm. Sử dụng đoạn phim hoạt hình củng cố nội dung bài học, gây hứng thú học tập cho HS. GV nên hướng dẫn HS củng cố kiến thức bằng BĐTD giúp HS dễ học, dễ nhớ. Kích thích hứng thú học tập, sự sáng tạo của HS. HS củng cố kiến thức bằng SĐTD. * Biện pháp 5: Giúp đỡ nhau cùng học tập. Trong lớp có nhiều đối tương HS nên đối với một số em HS khi giải toán GV cần động viên khuyến khích những em HS giỏi để các em kiểm tra và giảng bài cho các em còn lại. Khi sắp xếp chỗ ngồi, nên xếp một em học yếu bên cạnh một em học khá, giỏi; để bạn học giỏi kèm cặp cho bạn học yếu hơn. Vì HS khi giảng bài cho nhau thì các em cũng dễ tiếp thu Kiến thức (“học thầy không tày học bạn”, những em học yếu thường rụt rè, nhút nhát khi thầy cô hỏi bài thường cảm giác sợ sai, ngại hỏi khi chưa hiểu, nhưng khi hỏi bạn thì tâm lí thoải máihơn nên dễ tiếp thu hơn). GV cần chia ra các nhóm học tập (phương pháp khăn trải bàn, mảnh ghép, KWL), trong mỗi nhóm phải đảm bảo có đầy đủ các đối tượng HS (Giỏi - khá - TB - yếu) để các em trao đổi và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Khi GV gọi đại diện nhóm trả lời nên gọi những HS yếu trình bày. GV cần sưu tầm thêm những dạng bài tập cùng những bài tập tương tự để các em giúp nhau học tập. Đồng thời phải đưa thêm các dạng bài tập khó và nâng cao cho HS giỏi được làm quen và phát huy được trí tuệ cùng năng lực của HS. Lập ra ban cán sự bộ môn, nhóm chuyên gia để kiểm tra việc chuẩn bị sách vở đồ dùng học tập và làm bài tập về nhà của các bạn, giảng giải những bài tập khó vào 15 phút đầu giờ, lúc hoạt động nhóm. * Biện pháp 6: Kết hợp chặt chẽ giữa GV bộ môn, GV chủ nhiệm, nhà trường và gia đình. Việc phối hợp giữa GV bộ môn với GV chủ nhiệm trong công tác dạy học cũng là điều cần thiết. GV bộ môn phải trao đổi với GV chủ nhiệm những HS cá biệt, HS lười để cùng hợp tác kiểm điểm, nhắc nhở; mục đích là cho các em sửa chữa, tiến bộ để bắt kịp trình độ cả lớp. Lứa tuổi các em đang là giai đoạn giao thời giữa trẻ con sang người lớn, do đó các em rất dễ bị tổn thương. Khi GV bộ môn nắm được tâm lí của HS yếu kém, vì kiến thức bị hổng, bị khuyết không theo kịp các bạn dẫn đến ngày càng chán nản, buông thả. Từ đó GV sẽ có thái độ nhẹ nhàng, không gò bó, áp đặt, mọi tình huống luôn gợi mở. Đồng thời ưu tiên những HS này các bài tập dễ hoặc câu hỏi dễ, nếu HS trả lời đúng cần tuyên dương ngay nhằm khích lệ ngọn lửa trong lòng các em đẩy mạnh tinh thần phấn đấu trong các em. Cũng thông qua GV chủ nhiệm, GV bộ môn mới nắm được tình hình gia đình của những em cá biệt có hoàn cảnh gia đình để có biện pháp phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau mang lại hiệu quả giáo dục cao hơn. 3.3 Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp: Để các biện pháp trên đạt hiệu quả người GV cần: - Nghiên cứu sâu sắc rõ ràng về nội dung bài dạy, soạn giáo án cụ thể và chi tiết, thiết kế ĐDDH sao cho sinh động, tìm hiểu phân loại đối tượng HS để có kế hoạch giảng dạy thích hợp, từ đó dự kiến những việc cần hướng dẫn HS. - Đặc biệt GV phải nghiên cứu kĩ để đưa ra phương pháp truyền thụ hiệu quả nhất, GV phải thường xuyên rút kinh nghiệm qua mỗi bài giảng, xem xét bài nào chỗ nào HS hiểu nhanh, tốt nhất, chỗ nào chưa thành công để rút kinh nghiệm tìm phương pháp khác có hiệu quả hơn. - Thường xuyên trau rồi kiến thức, phương pháp dạy học để tạo được hứng thú học tập cho HS trong các giờ học, hướng dẫn HS cách học bài, làm bài và cách nghiên cứu trước bài mới ở nhà. - Xây dựng nề nếp học tập cho HS có thói quen chuẩn bị sách vở đồ dùng học tập, nếu bài tập về nhà chưa giải được phải hỏi bạn và phải báo cáo với thầy trước khi vào lớp. Khi giảng bài GV đặt câu hỏi cần phù hợp với từng đối tượng HS, câu hỏi phải ngắn gọn dễ hiểu và câu hỏi đó phải trực tiếp giải quyết vấn đề cả lớp đang nghiên cứu. - Cần quan tâm đến mọi HS trong lớp, tăng cường phụ đạo cho các em HS yếu kém, tìm ra những chỗ HS đã bị hỗng để phụ đạo tạo cho các em niềm tin vững vàng và hứng thú khi học toán, tránh gây cho các em có cảm giác học toán là nặng nề và khô khan. Điều đó đòi hỏi người GV phải có lòng yêu nghề, yêu thương HS và phải có một lượng kiến thức vững chắc, có những phương pháp truyền thụ phù hợp với từng đối tượng HS. - HS cần học kĩ lí thuyết và cố gắng hiểu kĩ kiến thức ngay trên lớp. - HS về nhà tích cực làm bài tập đầy đủ, phân phối thời gian hợp lí. - Gia đình HS và các tổ chức đoàn thể xã hội cần quan tâm hơn nữa và trách nhiệm hơn nữa tới việc học tập của con em mình. 3.4 Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp: Các biện pháp trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi GV chủ nhiệm, GV bộ môn, nhà trường và gia đình kết hợp chặt chẽ với nhau thì mỗi GV sẽ nắm bắt được đặc điểm của từng HS, từ đó có những biện pháp giáo dục, giảng dạy hợp lí. Còn phía HS khi được sự quan tâm giúp đỡ của bạn bè thầy cô sẽ cảm thấy tự tin hơn học tập sẽ tốt hơn. Tìm hiểu kĩ nội dung bài toán trước khi làm bài thì chắc chắn các lỗi sai sẽ giảm hơn. Đặc biệt khi được GV củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản HS sẽ nắm các kiến thức một cách vững chắc, được làm nhiều bài tập của cùng một dạng thì kĩ năng trình bày bài toán của HS sẽ tốt hơn, ít sai sót hơn. Còn nếu GV chỉ củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản mà ít cho HS thực hành bằng cách cho làm nhiều bài tập thì HS sẽ nắm được các kiến thức cơ bản nhưng sẽ gặp nhiều sai sót trong kĩ năng trình bày. Ngược lại nếu GV chỉ cho HS làm nhiều bài tập của cùng một dạng mà không củng cố khắc sâu kiến thức cơ bản cho HS thì nhiều em sẽ không nắm chắc được bản chất của một khái niệm, một định lí dẫn đến dễ ngộ nhận và nhầm lẫn. 3.5 Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Qua việc khảo sát chấm chữa các bài kiểm tra tôi nhận thấy rằng tỉ lệ bài tập HS giải đúng tăng lên. Cụ thể : Bài kiểm tra 15 phút số 1: Tổng số 61 em Số bài kiểm tra đạt TB trở lên là 47 em chiếm 77%. Bài kiểm tra 15 phút số 3: Tổng số 61 em Số bài kiểm tra đạt TB trở lên là 55 em chiếm 89%. Tuy mới dừng lại ở các bài tập chủ yếu mang tính áp dụng nhưng hiệu quả đem lại cũng đã phản ánh phần nào hướng đi đúng. Như vậy sau khi tôi phân tích kĩ các sai lầm mà HS thường mắc phải trong khi giải bài toán về đại số thì số HS giải đúng bài tập tăng lên, số HS mắc sai lầm giảm đi nhiều. Từ đó chất lượng dạy và học môn Đại số nói riêng và môn Toán nói chung được nâng lên. 4. Kết quả thu được của khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu: Sau khi áp dụng các biện pháp trên, tôi thấy HS có nhiều tiến bộ, các em tiếp cận kiến thức một cách nhẹ nhàng hơn, kết quả học tập của các em khả thi hơn; trong quá trình giải toán các lỗi sai của các em giảm hẳn; HS có ý thức hơn, cẩn thận hơn, trình bày một bài toán khoa học chặt chẽ hơn, đặc biệt các em yêu thích, hứng thú học toán hơn. Nhiều đồng nghiệp sau khi dạy thay cho tôi nhận xét rằng: các em có kĩ năng khi trình bày một bài toán, logic, hợp lí, khoa học và hầu như không mắc những sai lầm mà nhiều HS hay mắc phải. Kết quả giảng dạy sau khi áp dụng các biện pháp trên đạt được như sau: Điểm kiểm tra lần 1 Stt Lớp Dưới trung bình Trên trung bình Tỉ lệ dưới trung bình (%) 1 8A2 0 29 0 2 8A10 2 32 6,25 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ: 1. Kết luận: Các biện pháp trình bày trên đây chưa hết những gì mà người GV thực hiện trong quá trình giảng dạy đối với các em HS, nhưng đó là những việc tôi đã thường xuyên làm để giúp đỡ các em tránh được những sai lầm khi giải toán 8. Với lượng kiến thức ngày một nâng cao và khó thêm HS sẽ gặp khó khăn hơn để ghi nhớ những kiến thức đồ sộ của tất cả các môn học trong đầu. Vì thế rất cần sự truyền đạt kiến thức của thầy, cô giáo tới HS một cách dễ hiểu. Từ đó tôi thấy mình cần phải học hỏi nhiều hơn nữa, nghiên cứu nhiều hơn nữa những loại sách để bổ trợ cho môn toán. Giúp bản thân mình ngày một vững vàng hơn về kiến thức và phương pháp giảng dạy, giúp cho HS không còn coi môn toán là môn học khô khan và đáng sợ nhất. Đồng thời không chỉ với môn đại số 8 mà tôi cần tiếp cận với những mảng kiến thức khác của môn toán để làm sao khi giảng dạy kiến thức truyền đạt tới các em sẽ không còn cứng nhắc và áp đặt. Như vậy việc khắc phục những sai lầm cho HS khi giải một bài toán có vị trí và vai trò rất quan trọng trong hoạt động giải toán. Việc GV hướng dẫn HS khắc phục tốt còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kinh nghiệm, kĩ năng truyền đạt, khả năng tiếp thu kiến thức của từng HS 2. KIẾN NGHỊ: Vì thời gian nghiên cứu đề tài có hạn nên tôi chỉ đưa ra những vấn đề cơ bản nhất để áp dụng vào năm học này qua sự đúc rút của các năm trước đã dạy. Để nâng cao chất lượng dạy và học của GV và HS tôi xin được đề xuất một số ý nhỏ như sau : - Mỗi GV cần thực hiện tốt cuộc vận động: “Nói không với bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử”. Nếu em nào không đủ chuẩn lên lớp thì cho ở lại, tránh tình trạng cho lên lớp đều đều dẫn tới số lượng HS “ngồi nhầm lớp” gia tăng. - GV cần tích cực học hỏi và tham gia chuyên đề, hội thảo của tổ, nhóm và nhà trường, sinh hoạt cụm chuyên môn, tham gia tích cực và nghiên cứu tài liệu về bồi dưỡng thường xuyên. - Gia đình HS và các tổ chức đoàn thể xã hội cần quan tâm hơn nữa và trách nhiệm hơn nữa tới việc học tập của con em mình. - Tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện dạy - học để việc tổ chức tiết học đạt hiệu quả. - Nhân rộng và phổ biến những kinh nghiệm hay mô hình tốt có hiệu quả thiết thực. - Ở các trường nên tăng thêm một vài hoạt động ngoại khóa toàn trường về tìm hiểu kiến thức phổ thông theo từng môn để học sinh có cơ hội giao lưu, học hỏi và khẳng định bản thân, giúp các em hăng say học tập và đam mê nghiên cứu để thể hiện mình hơn. - Chúng ta cần có những buổi chuyên đề thảo luận về một nội dung, một trọng điểm hay một vấn đề cụ thể của Toán học để thu hút đông đảo sự tham gia của toàn bộ giáo viên trong trường, trong cụm hoặc trong huyện (tùy vào phạm vị tổ chức). - Phòng Giáo dục và Đào tạo mở thêm các chuyên đề để chúng tôi có điều kiện trao đổi và học hỏi thêm. GV học tập rất hứng thú vì được tiếp nhận thêm nhiều kiến thức mới vô cùng bổ ích để phục vụ cho việc giảng dạy. Trên đây là một vài biện pháp của tôi nhằm giúp HS khắc phục những sai lầm khi giải toán đại số 8. Vì khả năng có hạn, kinh nghiệm giảng dạy môn Toán 8 chưa nhiều, tầm quan sát tổng thể chưa cao, lại nghiên cứu trong một thời gian ngắn nên SKKN này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong được sự góp ý, chỉ bảo của cấp trên và các bạn đồng nghiệp để SKKN của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! BMT, ngày 15 tháng 12 năm 2019 Người viết: Hồ Thị Thùy Vân NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG I . PHẦN MỞ ĐẦU 1-3 1. Lý do chọn đề tài. 1-2 2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài. 2 3. Đối tượng nghiên cứu. 2 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu. 2-3 5. Phương pháp nghiên cứu. 3 II. PHẦN NỘI DUNG 3-21 1. Cơ sở lý luận. 3 - 5 2. Thực trạng Thuận lợi – Khó khăn Thành công – Hạn chế Mặt mạnh – Mặt yếu Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đặt ra 5 - 6 6 6 6 - 7 7 3. Giải pháp, biện pháp. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 4. Kết quả thu được của khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu. 7 7 - 19 19 19 - 20 20 20 -21 III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. 21 2. Kiến nghị. 21 - 22 Mục lục 24 Tài liệu tham khảo 25 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT GV: Giáo viên HS: Học sinh SKKN: Sáng kiến kinh nghiệm ĐDDH : Đồ dùng dạy học SĐTD: Sơ đồ tư duy THCS : Trung học cơ sở TB : Trung bình TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Toán 8 tập 1, 2. Nhà xuất bản Giáo dục. 2. Sách bài tập Toán 8 tập 1, 2. Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Sách giáo viên Toán 8 tập 1, 2. Nhà xuất bản Giáo dục. 4. Phương pháp dạy học môn toán tập 1, 2. Nhà xuất bản Giáo dục. 5. Các dạng toán và phương pháp giải 8 tập 1, 2. Nhà xuất bản giáo dục. 6. Toán nâng cao và các chuyên đề đại số 8. Nhà xuất bản giáo dục.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_sai_lam_hoc_sinh_thuong_gap_khi.doc