Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh giải toán có lời văn ở lớp 3
Mỗi môn học ở Tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu rất quan trọng ở nhân cách người học. Trong các môn học ở Tiểu học cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng vì: Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống, nó là chìa khoá rất cần thiết để học các môn học khác và học tiếp môn Toán ở các bậc học tiếp theo. Đồng thời môn Toán còn có khả năng như phát triển tư duy lôgic, những thao tác trí tuệ cần thiết giúp con người trong hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả như mong muốn..
Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học được hình thành chủ yếu bằng thực hành, luyện tập và thường xuyên được ôn tập, củng cố, phát triển, vận dụng trong học tập và trong đời sống.
Bước vào năm học mới, sau khi nhận học sinh một vài tuần, các nề nếp đang được ổn định dần, song song tiến hành ôn tập toán, ôn luyện lại kiến thức đã học, nhanh chóng giúp các em củng cố sau hai tháng nghỉ hè hơn nữa do ảnh hưởng dịch covitd 19 nên các em còn hổng nhiều.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm giúp học sinh giải toán có lời văn ở lớp 3

ng những thế, các em còn làm được bài giải có lời văn, phép tính chính xác. Vì vậy các em học sôi nổi hơn, thích thú hơn với những bài giải có lời văn và không còn ngại như trước nữa. 3.5. Khích lệ học sinh tạo hứng thú khi học tập Các em rất tích cực giải toán. Đặc điểm chung của học sinh Tiểu học là thích được khen hơn chê, hạn chế chê các em trong học tập, rèn luyện. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti, vì vậy tôi luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương ngay,cho dù em có trả lời sai tôi cũng nhẹ nhàng gợi mở, định hướng để em cảm thấy không căng thăng, không lo sợ. Để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em học tốt hơn phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen.Chính sự khen, và khuyến khích đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng rất nhiều khích lệ các em hăng hái học tập và ngày một tiến bộ. Để khích lệ học tạo hứng thú học tập tôi tổ chức nhiều hình thức phong phú đề cho các em có nhiều cơ hội được khen mà làm bài cũng tốt hơn. Ngoài khen cá nhân thì tôi còn khen tập thể ( có thể là nhóm) bằng cách tổ chức học tập theo nhóm với hình thức kê bàn ghế theo từng nhóm học sinh để các em có thể bàn luận những bài giải khó và đưa ra cách giải tốt nhất. Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố không kém phần quan trọng giúp các em có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta đều biết học sinh Tiểu học nói chung, học sinh lớp 3 nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén, sắc sảo, có óc tưởng tượng phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Hơn nữa cơ thể của các em còn đang trong thời kì phát triển hay nói cụ thể hơn là các hệ cơ quan còn chưa hoàn thiện vì thế sức dẻo dai của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể ngồi lâu trong giờ học cũng như làm một việc gì đó trong một thời gian dài. Vì vậy muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học tức là kiểu dạy học :“Phát triển các năng lực cho học sinh.”, hướng tập trung vào học sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Trong mỗi tiết học, tôi thường dành khoảng 2- 3 phút để cho các em nghỉ giải lao tại chỗ bằng cách chơi các trò chơi học tập vừa giúp các em thoải mái sau giờ học căng thẳng, vừa giúp các em có phản ứng nhanh nhẹn, ghi nhớ một số nội dung bài đã học Tóm lại: Trong quá trình dạy học người giáo viên không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ năng học toán, truyền đạt kiến thức cho các em mà còn phải quan tâm chú ý đến việc khuyến khích, khích lệ tạo hứng thú trong học tập. 3.6. Phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, phụ huynh học sinh để giúp học sinh học giải toán có lời văn tốt hơn. Hình thành nhân cách cho các em là quá trình tổ chức hoạt động có mục đích có kế hoạch đến các mặt nhận thức, tình cảm và hành động ý chí của các em. Hiệu quả của quá trình tổ chức này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó việc phối hợp với các bậc cha mẹ và thân nhân của gia đình các em là yếu tố cần được coi trọng. Bởi vì, gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi thân yêu nuôi dưỡng cả đời người, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách cho các em. Đảm bảo sợi dây liên kết gắn bó giữa nhà trường với gia đình là một đảm bảo cho việc thực hiện tính liên tục và đồng bộ trong tổ chức hoạt động giáo dục, vừa là sự bù đắp những tác động giáo dục mà trong điều kiện của nhà trường khó có thể làm được. Để có mối liên hệ gắn bó, mật thiết với phụ huynh học sinh, tôi đã mạnh dạn đưa ra việc sau: - Lấy số điện thoại, tạo nhóm zalo. - Liên lạc với phụ huynh ngay khi năm học bắt đầu, có nghĩa là khi tiếp nhận danh sách HS của lớp là tiếp nhận luôn danh sách cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng HS. - Có thể hình thành một bộ phận hồ sơ gửi cho mỗi phụ huynh học sinh để có thông tin như: + Tên họ, nghề nghiệp cha mẹ hoặc người nuôi dưỡng. + Địa chỉ gia đình. + Số điện thoại để liên lạc khi cần thiết. + Những đặc điểm cần chú ý khi giáo dục con em của mình mà gia đình thấy cần thiết đề nghị với GVCN. + Có thể ghi chú thêm thời gian hay cách tốt nhất để liên lạc giữa GV với gia đình khi cần thiết. - Chuẩn bị đưa ra một danh sách những đồ dùng, những sách vở và dụng cụ cần thiết mà các em phải mang theo vào mỗi ngày đến lớp. Ngoài ra để giúp cho phụ huynh có biện pháp phù hợp trong việc giáo dục con cái, tôi đã mạnh dạn trao đổi với Phụ huynh học sinh về chỉ tiêu phấn đấu của lớp, cách hướng dẫn các em tự học ở nhà. Rất mừng là đa số phụ huynh đều nhiệt tình, ủng hộ biện pháp trên vì lâu nay các phụ huynh còn đang vướng mắc nhiều về cách dạy học cho các em; nhiều gia đình người mẹ bận việc mà người bố ngại hướng dẫn con nên việc học của con cái chưa được tập trung chú ý. Riêng trong phần bài tập của sách Toán, tôi hướng dẫn phụ huynh cách dạy các em luyện nêu miệng các đề toán, luyện nói và trả lời nhiều Ngoài việc trao đổi với phụ huynh qua cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi còn trao đổi với phụ huynh qua tin nhắn Edu của Bưu điện thường xuyên để phụ huynh nắm bắt được việc học tập của con em mình nhất là qua mỗi dạng toán giải mà học sinh còn lúng túng ,vướng mắc khi giải. Tuy nhiên, cuộc họp phụ huynh lần này vẫn còn một số gia đình vắng mặt do có việc đột xuất, do chưa thấy hết được tầm quan trọng của việc học, và do điều kiện gia đình còn nhiều khó khăn nên phó mặc việc học của con cái cho giáo viên, cho nhà trường. Đối với những phụ huynh vắng mặt này, tôi tìm cách gặp gỡ, trao đổi tại nhà. Các gia đình này phần lớn trình độ văn hoá của bố mẹ không có, thậm chí họ không biết cách dạy con như thế nào nữa mà chỉ biết nhắc nhở con: “Học bài đi” rồi con học gì, làm gì ở bàn học bố mẹ cũng không hayĐối với những em này, tôi phải hướng dẫn nhiều hơn ở lớp để về nhà các em tự học. Các giáo viên bộ môn giảng dạy tại lớp chủ nhiệm ở Tiểu học có số thời gian làm việc tiếp xúc với học sinh không nhiều, nhưng vẫn có điều kiện hiểu biết năng lực, sở trường của mỗi học sinh đối với hoạt động chủ đạo của các em - hoạt động học tập. Vì thế việc phối hợp chặt chẽ GVCN với giáo viên bộ môn trong công tác chủ nhiệm sẽ giúp cho GVCN nắm bắt tình hình học sinh thường xuyên, liên tục, cụ thể để từ đó có những tác động cần thiết tới đối tượng giáo dục, vừa góp phần nâng cao chất lượng hiệu quả giảng dạy, vừa đảm bảo tính đồng bộ khách quan, thực tiễn và cá biệt trong khi triển khai kế hoạch chủ nhiệm và đánh giá kết quả phấn đấu rèn luyện của học sinh. - Liên hệ mật thiết với giáo viên bộ môn để nắm bắt được tình hình học tập của mỗi học sinh đối với bộ môn họ giảng dạy về thái độ, trình độ nhận thức, kết quả học tập. Nhờ những thông tin do giáo viên bộ môn cung cấp, GVCN có thể có được một bức tranh cụ thể, rõ nét hơn về mỗi học sinh, từ đó có được cách thức tác động, điều chỉnh, bổ sung phù hợp với đặc điểm phát triển nhân cách của đối tượng giáo dục. - Thông báo cho giáo viên bộ môn tình hình phấn đấu rèn luyện, những mặt mạnh và mặt yếu của tập thể lớp, những học sinh có năng lực học tập tốt, những học sinh có năng lực học tập yếu kém, những học sinh có phẩm chất đạo đức cần phải lưu tâm, uốn nắn. Trong một lớp học, lực học của các em không đồng đều, ý thức học của nhiều em chưa cao. Để thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” của ngành giáo dục tôi đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trong trường qua các giờ dạy của giáo viên bộ môn, các tiết Sinh hoạt tập thể, Hoạt động ngoài giờ lên lớp. 4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Nhờ áp dụng, kết hợp các biện pháp trên trong giảng dạy mà tôi đã thu được những kết quả ban đầu trong việc dạy học “Giải toán có lời văn” nói riêng và trong chất lượng môn Toán nói chung bởi vì “Giải toán có lời văn” là dạng toán giải khó của chương trình. Học sinh phải đặt lời giải trước phép tính và kết quả của bài toán. Nếu các em nắm chắc được cách giải toán ở lớp 3 chắc chắn sau này các em học lên các lớp trên sẽ có điều kiện tốt hơn ở dạng toán khó hơn. Trong năm học trước, năm học 2021 - 2022 có những em khi giải toán còn đặt câu lời giải như: “Có tất cả bao nhiêu là:” hoặc “Hỏi số gà còn lại là:” Những lỗi đó đến nay không còn nữa, các em học sinh lớp tôi không những biết cách đặt câu lời giải hay, viết phép tính đúng mà còn biết cách trình bày bài giải đúng, đẹp. * Kết quả đến giữa học kỳ II. Một ô tô đi trong 5 giờ thì được 225 km. Hỏi ô tô đó đi trong 3 giờ được bao nhiêu ki - lô - mét? Sĩ số Giải thành thạo Giải chậm Chưa nắm được cách giải 26 em 16 em = 66,6 % 9 em = 34,6% 1 em = 3,8% Ta thấy kết quả đến giữa học kỳ II tỷ lệ giải thành thạo tiếp tục tăng, tỷ lệ giải chậm và chưa nắm được cách giải đã giảm rõ rệt.. Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác của các em, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên. Qua kết quả đã đạt được trên, tôi thấy số học sinh chưa nắm được cách giải tuy vẫn còn nhưng chỉ còn với tỉ lệ thấp, số học sinh giải thành thạo tăng. So với đầu năm học thì kết quả trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy học của tôi đã có kết quả rõ rệt và đến cuối năm sẽ không còn học sinh chưa nắm được cách giải nữa. Với kết quả này, tôi tin rằng chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn. III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ 1. Kết luận Qua những vướng mắc thực tế, cùng với lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tôi hoàn thành ý tưởng của mình. Mỗi lần thực hiện, vận dụng vào thực tế lớp học tôi lại rút ra được một vài kinh nghiệm sau: - Người giáo viên phải thực sự có lòng nhiệt tình, say mê với nghề nghiệp, với lương tâm trách nhiệm của người thầy. - Trong quá trình giảng dạy phải luôn nắm bắt thực tế ở lớp mình dạy, để từ đó nghiên cứu tìm ra hướng giải quyết tốt nhất. - Mỗi biện pháp giáo dục của giáo viên phải được thực hiện đúng thời điểm, đúng nội dung ở từng bài học. - Không nên quá phụ thuộc vào sách giáo viên, vì sách giáo viên chỉ là tài liệu hướng dẫn, tham khảo không thể áp dụng đại trà với mọi đối tượng học sinh trong lớp được. - Cần quan tâm, động viên, khuyến khích, giúp đỡ các em vượt qua mọi khó khăn để học tập tốt hơn. - Trong quá trình hướng dẫn giải toán có lời văn (ở lớp 3) giáo viên cần lưu ý hơn nữa tới việc hướng dẫn cho các em cách đặt câu lời giải cho sát với yêu cầu của đề bài đặt ra. Vì việc thực hiện phép tính các em đều có thể nêu được ngay sau khi đọc xong đề toán. - Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo, người giáo viên cần chú ý nhiều đến kỹ năng nghe, đọc, viết trong môn Tiếng việt. Luyện kỹ năng hỏi - đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thông hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời giải cho bài toán chính xác hơn. - Phải cố gắng khắc phục các sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần, mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết. - Điều rất quan trọng nữa là sự mềm mỏng, kiên trì uốn nắn học sinh của giáo viên trong mọi lúc của giờ học. - Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm, tổ chức các trò chơi học tập và tập trung chú ý tới các đối tượng học sinh để giúp các em học tốt hơn. - Người giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của giáo dục, đặc biệt là ở bậc Tiểu học. Muốn thế, người giáo viên phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tự tìm tòi trong các tài liệu có liên quan, tham gia tích cực vào các lớp tập huấn, ứng dụng có hiệu quả tin học trong dạy học, thực hiện tốt công tác BDTX do ngành, trường tổ chức. Điều quan trọng nhất trong dạy học là lòng yêu nghề, mến trẻ.. - Nếu được thực hiện đồng bộ, đúng lúc, kịp thời các biện pháp trên, tôi tin rằng chất lượng môn toán nói chung và phần giải toán có lời văn nói riêng của các em lớp 3 sẽ có kết quả nhất định và là nền móng vững chắc để các em học tốt hơn ở các lớp sau. - Với một vài kinh nghiệm này, tôi mong muốn được đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy học nói chung và với dạng bài “Giải toán có lời văn” trong môn Toán 3 nói riêng. * Tóm lại: Để giúp học sinh giải toán có lời văn thành thạo, tôi luôn luôn chú ý rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho các học sinh trong các giờ học Tiếng Việt, bởi vì học sinh đọc thông, viết thạo là yếu tố “đòn bẩy” giúp học sinh hiểu rõ đề và tìm cách giải toán một cách thành thạo Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của hội đồng khoa học, của các đồng nghiệp để tôi hoàn thiện mình hơn góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. 2. Kiến nghị Để việc dạy và học đạt kết quả cao, tôi có một số kiến nghị sau: + Phòng Giáo dục và Đào tạo tổ chức các chuyên đề để giáo viên có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn (nhất là phương pháp giải toán có lời văn), những mô hình dạy học có hiệu quả ở các trường bạn.. + Nhà trường: Ban Giám hiệu nhà trường cần phối hợp với các cấp chính quyền địa phương để làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục.. VD : Trang thiết bị máy tính, máy chiếu , ti vi, đường truyền mạng rất cần cho việc dạy học theo chương trình mới CTGD phổ thông 2018. + Đối với giáo viên: Không ngừng bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, luôn đổi mới phương pháp dạy học tích cực, có hiệu quả, sáng tạo và phù hợp với năng lực của mình. Thường xuyên tổ chức các cuộc họp phụ huynh học sinh theo định kỳ, để thông báo và trao đổi những yêu nhược điểm của học sinh để có các giải pháp giáo dục dạy học kịp thời. + Phụ huynh: Cần chăm lo, quan tâm đến các điều kiện học tập thiết yếu cho học sinh từ đó học sinh đi học chuyên cần, đầy đủ. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trường Tiểu học Yên Bài , cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh trường Tiểu học Yên Bài đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành sáng kiến này . Vì thời gian nghiên cứu có hạn nên bản sáng kiến của tôi còn nhiều hạn chế, tôi mong được các bạn đồng nghiệp, BGH nhà trường góp ý chân thành cho bản sáng kiến này . Trong quá trình nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự góp ý, nhận xét đánh giá của Hội đồng khoa học, các đồng chí, đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác Yên Bài, ngày 7 tháng 4 năm 2023 Người thực hiện Nguyễn Thị Vân TÀI LIỆU THAM KHẢO 1, Tài liệu BDTX theo các môđun tự chọn TH 13, TH 14; 2, Sách Kết nối tri thức với cuộc sống toán 3 – NXB giáo dục. 3, Sách giáo viên Toán 3 – NXB giáo dục. 4, Tạp chí Giáo dục Tiểu học từ số 8 – 11/ 2015.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_giai.doc