Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy các bài toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 đạt hiệu quả cao

2. Mô tả bản chất của sáng kiến

2.1. Các giải pháp thực hiện, các bước và cách thức thực hiện:

Qua thực tế giảng dạy và dự giờ, tôi nhận thấy vấn đề cần giải quyết đặt ra là giáo viên phải tìm cách khắc phục điểm yếu cho học sinh, kiên trì rèn kĩ năng cho các em từ đơn giản đến phức tạp.

Chú trọng thực hiện một số yêu cầu cơ bản sau:

+ Rèn kĩ năng đổi đơn vị đo thời gian cho học sinh.

+ Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản về dạng toán chuyển động đều, hệ thống các công thức cần ghi nhớ.

+ Giúp học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng.

+ Giúp các em vận dụng các kiến thức cơ bản để giải tốt các bài toán chuyển động đều theo từng dạng bài.

Để giải quyết vấn đề đã nêu ra ở trên, trước tiên, tôi quan tâm đến việc tạo tâm thế hứng khởi cho các em khi tham gia học toán. Giúp các em tích cực tham gia vào quá trình học tập, tạo điều kiện cho các em phát triển tư duy óc sáng tạo, khả năng phân tích, tổng hợp. Sau đó tôi tiến hành theo các biện pháp sau:

1. Rèn kĩ năng đổi đơn vị đo cho học sinh.

Tôi nhận thấy một sai lầm mà nhiều học sinh mắc phải khi giải toán chuyển động đều đó là các em chưa nắm vững cách đổi đơn vị đo thời gian.

Hầu hết các bài toán chuyển động đều yêu cầu phải đổi đơn vị đo trước khi tính toán. Tôi chủ động cung cấp cho học sinh cách đổi như sau:

1.1. Giúp học sinh nắm vững bảng đơn vị đo thời gian, mối liên hệ giữa các đơn vị đo cơ bản.

1 ngày = 24 giờ.

1 giờ = 60 phút.

1 phút = 60 giây.

- Hướng dẫn học sinh tìm " tỉ số giữa 2 đơn vị ". Ta quy ước " Tỉ số của 2 đơn vị " là giá trị của đơn vị lớn chia cho đơn vị nhỏ.

docx 24 trang Hương Thủy 08/06/2025 80
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy các bài toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 đạt hiệu quả cao", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy các bài toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 đạt hiệu quả cao

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy các bài toán chuyển động đều cho học sinh lớp 5 đạt hiệu quả cao
oán chuyển động đều cung cấp một lượng vốn sống hết sức cần thiết cho một bộ phận các em học sinh không có điều kiện học tiếp bậc phổ thông cơ sở mà phải nghỉ học để bước vào cuộc sống lao động sản xuất. Mặt khác: việc hình thành , rèn luyện, củng cố các kĩ năng giải toán "Chuyển động đều" gần như là chưa có nên các em không thể tránh khỏi những khó khăn, sai lầm khi giải loại toán này. Vì thế rất cần phải có phương pháp cụ thể đề ra để dạy giải các bài toán "Chuyển động đều" nhằm đáp ứng các nội dung bồi dưỡng, nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên; bồi dưỡng, nâng cao khả năng tư duy linh hoạt và óc sáng tạo của học sinh. Đó là những cuốn sách viết về loại toán chuyển động đều, nhưng những cuốn sách này mới chỉ dừng lại ở mức độ hệ thống hóa các bài tập (chủ yếu là bài tập khó) cho nên sách chỉ được dùng làm tài liệu tham khảo cho học sinh giỏi, còn lại những tài liệu khác thì toán "Chuyển động đều" được đề cập đến rất ít, chưa phân tích một phương pháp cụ thể nào trong việc dạy giải loại toán này.
2. THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY MÔN TOÁN LỚP 5:
a. Thuận lợi – Khó khăn:
* Thuận lợi:
Ở lớp 5A đa số học sinh ngoan, lễ phép biết vâng lời thầy cô giáo và đoàn kết với bạn trong lớp học. Số lượng học sinh giỏi chiếm tỷ lệ cao, các em rất mạnh dạn và tự tin trước tập thể. Điều này rất thuận lợi cho việc giáo viên áp dụng phương pháp chung vào các đối tượng học sinh.
* Khó Khăn:
Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn nhất định như số học sinh có hoàn cảnh gia đình nghèo trong lớp chiếm tỷ lệ khá cao, một số gia đình phụ huynh học sinh chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình. Dẫn đến các em còn nhút nhát chưa thật mạnh dạn trong việc cùng với bạn tham gia phát biểu xây dựng bài, góp ý cho nhóm để hoàn thành nhiệm vụ.
b. Thành công – Hạn chế:
* Thành công
Trong phần giải toán chuyển động đều ở lớp 5 giúp học sinh biết cách giải một bài toán dạng chuyển động đều từ dạng một phép tính cho đến dạng toán nhiều phép tính từ đó các em có tính suy luận sang cách giải các dạng toán khác như toán Tổng – Tỷ, toán tính tuổi, v.v
* Hạn chế : 
Toán chuyển động đều đòi hỏi học sinh phải động não nhiều, tập trung tốt đối với các dạng toán có từ hai phép tính trở lên, vì thế các em thường nản và không đam mê, dẫn đến giáo viên gặp nhiều khó khăn trong việc nâng cao chất lượng đại trà của cả lớp.
c. Các nguyên nhân:
Nếu muốn giải được một bài toán thành công, học sinh phải tuôn thủ các bước chắt chẽ trong phương pháp giải toán. Ví dụ:
- Trong mỗi công thức trên, các đại lượng phải sử dụng trong cùng một hệ thống đơn vị đo. Chẳng hạn:
+ Nếu đơn vị đo quãng đường là km, đơn vị đo thời gian là giờ thì đơn vị đo vận tốc là km/giờ
+ Nếu đơn vị đo quãng đường là km, đơn vị đo thời gian là phút thì đơn vị đo vận tốc là km/phút.
+ Nếu đơn vị đo quãng đường là m, đơn vị đo thời gian là phút thì đơn vị đo vận tốc là m/phút.
+ Nếu đơn vị đo quãng đường là m, đơn vị đo thời gian là giây thì đơn vị đo vận tốc là m/giây.
- Khi giải toán có lời văn nói chung và toán chuyển động đều nói riêng, yêu cầu bắt buộc học sinh phải tuân thủ theo 4 bước:
+ Đọc bài toán
+ Phân tích bài toán
+ Lập kế hoạch giải và thực hiện kế hoạch giải
+ Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải
Chính vì vậy mà các em thương bỏ sót nhiều bước trong việc giải một bài toán chuyển động đều nói riêng và các dạng toán của môn toán lớp 5 nói chung.
d. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra :
Chúng ta cần tạo cho trẻ em nói và tư duy theo kiểu toán học vì chỉ đưa ra các biểu trưng và thuật ngữ toán học thì chưa đủ. Trẻ cần có cơ hội và nói chuyện với nhau về toán học. Điều đầu tiên là trẻ phải có các kỹ năng đọc để học toán. Nhiều trẻ gặp khó khăn trong môn toán do phức tạp của từ ngữ nhiều hơn là chính các bài toán đó. Nên đối với học sinh các kỹ năng đọc là rất cần thiết giúp học sinh giải bài toán.
 Đọc không phải là yêu cầu học sinh đọc to một từ mà là đọc và hiểu. Học sinh cần phải có khả năng đọc được các câu hỏi về toán, hiểu chúng và cuối cùng là giải các bài toán đó. Vì vậy giáo viên phải giúp học sinh hiểu nội dung bài toán. Giáo viên cần trình bày nội dung môn toán theo trình độ ngôn ngữ mà trẻ có thể đọc và hiểu được. Tuy nhiên việc đọc, nghe, nói của các em chưa đủ để học giải toán. Các em cần phải biết những điều các em nói, nghe, đọc và hiểu. Do đó các em cần phải biết dùng bút để viết các con số, các ký hiệu và ghi lại các thao tác giải toán, các em cần phải biết viết các bài toán cũng như biết vẽ hình. Do đó bạn cần phát triển kỹ năng viết bằng cách khuyến khích các em viết về các tư duy, ý tưởng toán học có sử dụng ngôn ngữ toán học phù hợp. Do vậy khi dạy giải toán cần thực hiện các bước sau:
* Bước 1: Tìm hiểu kỹ đề bài 
- Đây là bước quan trọng đầu tiên khi giải toán, cần phải giúp học sinh tìm hiểu kỹ đầu bài toán : Xác định nội dung, yêu cầu của bài toán (bài toán thuộc dạng nào? Cho biết gì, yêu cầu gì?)
Ví dụ : Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc theo dự tính là 12 km/giờ. Nếu người đó đi với vận tốc 15 km/giờ thì đến B sớm được 1 giờ. Hỏi thời gian người đó đi đến B theo vận tốc dự tính?
Như vậy qua bài toán trên, ở bước 1 ta hướng dẫn học sinh đọc kỹ đề bài (đọc nhiều lần để xác định nội dung, yêu cầu của bài toán)
+ Bài toán thuộc dạng nào? (Bài toán thuộc dạng chuyển động có 1 động tử tham gia)
+ Bài toán cho biết điều gì? (Bài toán cho biết vận tốc đi của người đó theo dự tính là 12 km/giờ và giả thiết nếu đi với vận tốc 15 km/giờ thì đến sớm hơn 1 giờ)
+ Bài toán yêu cầu gì : (Bài toán yêu cầu tìm thời gian người đó đi đến B theo vận tốc dự tính 12 km/giờ)
* Bước 2: Lập kế hoạch giải 
- Đây là bước quan trọng thứ hai : Phân tích và tóm tắt bài toán (dựa vào yêu cầu của bài toán để tóm tắt nội dung cho phù hợp với yêu cầu)
+ Phân tích các yếu tố liên quan đến bài toán : Tỉ số vận tốc dự tính với vận tốc giả thiết nêu ra : 12/15, nếu người đó đi với vận tốc 15 km/giờ đến sớm hơn 1 giờ nghĩa là ứng với quãng đường : 12x1 = 12 (km). Như vậy cứ một giờ thì người đó đi theo dự tính sẽ chậm 15 – 12 = 3 (km) mà quãng đường đi chậm hơn là 12 km.
+ Tóm tắt bài toán :
V1 dự tính : 12km/giờ
V2 giả thiết : 15 km/giờ ( sớm hơn 1 giờ
Tính t theo v dự tính ?
* Bước 3: Thực hiện kế hoạch giải 
- Bước quan trọng thứ 3 là thực hiện đúng kế hoạch giải toán : Nhắc lại công thức của dạng toán theo đề bài, tìm những dữ kiện liên quan đến nội dung bài giải, thực hiện các bước giải theo thứ tự yêu cầu
Sau khi đã phân tích kỹ nội dung và các dữ kiện liên quan đến bài giải, đồng thời đã tóm tắt bài toán, ta tiến hành hướng dẫn học sinh nhớ lại công thức tính vận tốc (v =) , quãng đường (s = v x t) và thời gian(t = ) rồi giải như sau :
 Quãng đường chênh lệch giữa dự tính với giả thiết là :
12 x 1 = 12 (km)
Quãng đường chênh lệch trên mỗi giờ giữa dự tính với giả thiết là:
15 - 12 = 3 (km)
Thời gian người đó đi theo giả thiết 15 km/giờ hết :
 12 : 3 = 4 (giờ)
Vậy thời gian người đó đi theo dự tính là :
4 + 1 = 5 (giờ)
Đáp số : 5 giờ
* Bước 4: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải.
- Bước cuối cùng của bài toán là kiểm tra lời giải, các bước đã thực hiện trong bài : cần phải dò lại từng bước đã thực hiện từ lời giải đến phép tính.
Sau khi đã giải xong bài toán, để đảm bảo cho kết quả đã tính là đúng hay chưa, ta cần hướng dẫn học sinh cách kiểm tra bài giải:
Vẽ lại sơ đồ sau khi đã tìm ra thời gian : 
 V1=15/km/giờ
 V2=12km/giờ
 15 x 4 = 60 km
Như vậy căn cứ vào sơ đồ, ta tính được :
+ Nếu người đó đi với vận tốc 15 km/giờ thì hết thời gian (60:15=4 giờ)
+ Nếu người đó đi với vận tốc 12 km/giờ thì hết thời gian (60:12=5 giờ)
So sánh giữa 2 vận tốc là lệch nhau 1 giờ, đúng với chi tiết bài toán đã cho. Ta kết luận bài giải trên đã đúng với đề bài. Cách giải hợp lý đúng phương pháp và công thức.
1.3. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm hiện tại (nếu là giải pháp cải tiến giải pháp đã biết trước đó tại cơ sở):
Khi dạy giải bài toán chuyển động đều giáo viên cần chú ý những điểm sau: 
Bài toán chuyển động đều là thể loại phức tạp, nội dung đa dạng phong phú. Do đó việc yêu cầu học sinh đọc kỹ đề toán để xác định được dạng bài và tìm ra hướng giải đúng là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi giáo viên. 
Khi dạy bài toán chuyển động đều, giáo viên nên tổ chức cho học sinh tóm tắt bài toán bằng sơ đồ đoạn thẳng, bản đồ tư duy... 
Đối với những bài toán chuyển động đều phức tạp, cần hướng dẫn học sinh một số phương pháp (sơ đồ đoạn thẳng, suy luận,) để đưa bài toán về dạng điển hình. 
Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động đều, giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa chọn cách giải hay nhất. 
Khi hướng dẫn giải các bài toán chuyển động, giáo viên phải giúp học sinh phân biệt được "thời điểm" và "thời gian", giúp học sinh biết vận dụng mối tương quan tỉ lệ thuận và tương quan tỉ lệ nghịch giữa ba đại lượng: quãng đường, vận tốc, thời gian vào việc giải bài toán. 
Giáo viên cần phải chuẩn bị chu đáo, tỉ mỉ bởi đây là bài toán khó có nhiều bất ngờ trong lời giải; chính vì vậy đứng trước một bài toán giáo viên cần làm tốt những công việc sau: 
+ Xác định đúng yêu cầu bài toán và đưa bài toán về dạng cơ bản. 
+ Tìm các cách giải khác nhau của bài toán. 
+ Dự kiến những khó khăn sai lầm của học sinh 
+ Tìm cách hướng dẫn học sinh tháo gỡ khó khăn và gợi ý để học sinh tìm được cách giải hay. 
+ Hướng dẫn học sinh lập bài toán tương tự (hoặc bài toán ngược) với bài toán đã giải. 
 1.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến8:
Đây là một sáng kiến hoàn toàn mới, không trùng về nội dung, giải pháp thực hiện sáng kiến đã được công nhận trước đây. Sáng kiến có tính khả thi cao, dễ vận dụng. 
 - Với đề tài: Một số kinh nghiệm dạy các bài toán chuyển động đều cho HS lớp 5 đạt hiệu quả cao có thể áp dụng cho tất cả học sinh khối lớp 5 trong trường và các đơn vị trường bạn.
1.5. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
	Đối với giáo viên cần mạnh dạn hơn trong việc tìm hiểu các đối tượng học sinh để nâng cao chất lượng chung của cả lớp.
Đối với các bậc cha mẹ học sinh, các tổ chức trong nhà trường cần có hình thức phối hợp chặt chẽ và tạo nhiều thuận lợi hơn trong việc tổ chức dạy học ở nhà cho các em đối với môn Toán nói riêng và các môn học ở tiểu học nói chung.
	1.6. Hiệu quả sáng kiến mang lại9:
Qua một thời gian giảng dạy thực nghiệm tôi tiến hành khảo sát để đánh giá kết quả học tập và sự tiến bộ chuyển biến của học sinh. Tôi tiến hành khảo sát chất lượng trên cả 4 lớp 5 của trường.
* Đề khảo sát (35 phút) có nội dung như sau:
Câu 1: (3 điểm) Khoanh vào chữ đặt trước câu trả lời đúng:
 Một ô tô đi được 150km trong 3giờ 20phút. Tính vận tốc của ô tô với đơn vị đo là km/giờ.
A. 46,87km/giờ. B. 45km/giờ C. 50km/giờ D. 75km/giờ.
Câu 2: (3 điểm) Một ô tô đi từ A đến B với vận tốc 34,5km/giờ. Cùng lúc đó một xe máy đi từ B về A với vận tốc 28km/giờ. Sau 1giờ 12 phút hai xe gặp nhau. Hỏi quãng đường AB dài bao nhiêu kilômét ?
 Câu 3: (2 điểm) Lúc 6 giờ, một ô ô chở hàng đi từ A với vận tốc 45km/giờ. Đến 8 giờ, một ô ô du lịch cũng đi từ A với vận tốc 60km/giờ và đi cùng chiều với ô tô chở hàng. Hỏi đến mấy giờ thì ôtô du lịch đuổi kịp ôtô chở hàng. 	
 Câu 4: (2 điểm) Một con thuyền đi với vận tốc 72 km/giờ khi nước lặng, vận tốc của dòng nước là 1,6 km/giờ.
a) Nếu thuyền đi xuôi dòng thì sau 3,5 giờ sẽ được bao nhiêu ki-lô-mét ? 
b) Nếu thuyền đi ngược dòng thì cần bao nhiêu thời gian để đi được quãng đường như khi xuôi dòng trong 3,5 giờ ?
* Với đề bài trên tôi thu được kết quả như sau:
Lớp
Số học sinh
HTT
HT
CHT
SL
TL%
SL
TL%
SL
TL%
5A
34
11
32,4 
22
64,7 
1
2,9 
5B
34
12
 35,3
22
64,7 
0
0
5C
33
10
30,3
22
66,7
1
3,0
5D
33
9
27,3
23
69,7
1
3,0

Qua thực tế giảng dạy và kết quả khảo sát. Tôi nhận thấy chất lượng học sinh các lớp nâng lên rõ rệt. Số em đạt điểm giỏi, khá nhiều. Các em nắm vững phương pháp, cách thức giải toán chuyển động đều, trình bày bài khoa học. Các em yêu thích và có hứng thú tham gia giải toán. Điều đó chứng tỏ việc tìm và áp dụng đổi mới phương pháp dạy học vào việc hướng dẫn học sinh lớp 5 giải các bài toán chuyển động đều đã mang lại kết quả khả quan.
2. Những thông tin cần được bảo mật - nếu có: không
3. Danh sách những thành viên đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu - nếu có:
TT
Họ và tên
Nơi công tác
Nơi áp dụng sáng kiến
Ghi chú
1
 Phan Thị Ánh
TH Đoàn Nghiên
Lớp 5A, Trường TH Đoàn Nghiên

2
Mai Trần Như Phượng
TH Đoàn Nghiên
Lớp 5B, Trường TH Đoàn Nghiên

3
Võ Thị Thanh Thúy
TH Đoàn Nghiên
Lớp 5C, Trường TH Đoàn Nghiên

4
Trương T. Thùy Trang
TH Đoàn Nghiên
Lớp 5D, Trường TH Đoàn Nghiên

4. Hồ sơ kèm theo:
Đại Nghĩa, ngày 20 tháng 3 năm 2023
Người viết báo cáo
(Ký và ghi rõ họ tên)
Phan Thị Ánh
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
PHIẾU NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ SÁNG KIẾN
Tên sáng kiến: .......................................................................................................
Thời gian họp: ......................................................................................................
Họ và tên người nhận xét: .....................................................................................
Học vị: ...................................... Chuyên ngành:...................................................
Đơn vị công tác: ....................................................................................................
Địa chỉ: .................................................................................................................
Số điện thoại cơ quan/di động: .............................................................................
Chức trách trong Hội đồng sáng kiến:...................................................................
NỘI DUNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
TT
Tiêu chí
Nhận xét, đánh giá
của thành viên Hội đồng
1
Tính mới và sáng tạo của sáng kiến:
Sáng kiến phải có giải pháp cải tiến giải pháp
đã biết trước đó tại cơ sở hoặc những nội dung
đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết hoặc là các giải pháp
mang tính mới hoàn toàn.

2
Tính khả thi của sáng kiến:
Sáng kiến phải có giải pháp đã được áp dụng,
kể cả áp dụng thử trong điều kiện kinh tế - kỹ
thuật tại cơ sở và mang lại lợi ích thiết thực;
ngoài ra có thể nêu rõ giải pháp còn có khả năng
áp dụng cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức
nào.

3
Tính hiệu quả của sáng kiến:
Sáng kiến phải so sánh lợi ích kinh tế, xã hội
thu được khi áp dụng giải pháp trong đơn so với
trường hợp không áp dụng giải pháp đó, hoặc
so với những giải pháp tương tự đã biết ở cơ sở
(cần nêu rõ giải pháp đem lại hiệu quả kinh tế, lợi ích xã hội cao hơn như thế nào hoặc khắc
phục được đến mức độ nào những nhược điểm
của giải pháp đã biết trước đó - nếu là giải pháp
cải tiến giải pháp đã biết trước đó);
Sáng kiến nếu được số tiền làm lợi (nếu có thể
tính được) và nêu cách tính cụ thể.


Đánh giá chung (Đạt hay không đạt):


THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
(Họ, tên và chữ ký)

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_day_cac_bai_toan_ch.docx