Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học môn Toán lớp 5
Trong hệ thống giáo dục nước ta, bậc Tiểu học có một vị trí hết sức quan trọng, bởi đây là bậc giáo dục “nền móng” giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở.
Với các môn học ở Tiểu học, môn Toán là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản ban đầu về số học, các số tự nhiên, phân số, số thập phân, các đại lượng cơ bản và một số yếu tố hình học, thống kê đơn giản; hình thành và rèn kỹ năng thực hành tính, đo lường, giải bài toán có nhiều ứng dụng thực tế trong cuộc sống. Bước đầu hình thành và phát triển năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa, kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập, phát triển hợp lý khả năng suy luận và diễn đạt đúng (bằng lời, bằng viết các suy luận đơn giản) góp phần rèn luyện phương pháp học tập làm việc khoa học, linh hoạt, sáng tạo. Ngoài ra môn Toán còn góp phần hình thành và rèn luyện phẩm chất đạo đức của người lao động trong xã hội hiện đại.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học môn Toán lớp 5

ài chiều rộng không thay đổi. Cách 1: Bài giải Thể tích của khối nước lúc ban đầu là: 10 x 10 x 5 = 500 (cm3) Thể tích của khối nước và hòn đá là: 10 x 10 x 7 = 700 (cm3) Thể tích của hòn đá là: 700 – 500 = 200 (cm3) Đáp số: 200cm3 Đặc biệt: các em được quan sát thực tế, được tự tay mình làm thí nghiệm, tự mình rút ra kết luận nên các em rất dễ dàng giải bài toán theo cách 2 mà không cần tôi giải thích. Cách 2. Chiều cao mức nước khi có hòn đá hơn chiều cao mức nước ban đầu là: 7 – 5 = 2 (cm) Thể tích hòn đá là: 10 x 10 x 2 = 200 (cm2) Đáp số: 200cm2 * Bài toán 2: Một cái thùng dạng hình lập phương có cạnh 5dm. Nửa thùng đó chứa nước. Người ta thả 25 viên gạch có chiều dài 2dm, chiều rộng 1dm, chiều cao 0,5dm vào thùng. Hỏi mức nước trong thùng sau khi dâng lên cách miệng thùng bao nhiêu dm? (Giả thiết gạch hút nước không đáng kể). Trong bài toán này học sinh đã nắm rất rõ về bản chất của bài nhờ thí nghiệm và kiến thức thực tế có được đó là: Khi cho gạch vào thùng mực nước sẽ dâng cao lên. Mực nước chênh lệch giữa mức nước ban đầu và mức nước sau khi thả gạch chính là do gạch chiếm chỗ làm chiều cao mực nước thay đổi. Chiều cao mức nước trong thùng dâng lên thêm đấy chính là do có 25 viên gạch thả vào. Xuất phát từ thực tế này học sinh giải bài toán đơn giản hơn và rõ ràng, thông minh hơn. Bài giải Thể tích một viên gạch là: 2 x 1 x 0,5 = 1(dm3) Thể tích 25 viên gạch là: 1 x 25 = 25(dm3) Sau khi thả 25 viên gạch vào thùng thì mực nước dâng thêm là: 25 : (5 x 5) = 1(dm) Sau khi thả 25 viên gạch vào thùng thì mực nước cách miệng thùng là: 5 – (5 : 2 + 1) = 1,5 (dm) Đáp số: 1,5 dm Như vậy: Một lần nữa, bằng cách dẫn dắt học sinh giải toán xuất phát từ những kiến thức và kinh nghiệm có trong cuộc sống hàng ngày tôi thấy học sinh của tôi hiểu bài sâu hơn, nhớ phương pháp giải lâu hơn và muốn học sinh có được tư duy trừu tượng thì khi xây dựng lên từ vốn sống thực tế các con sẽ vững vàng hơn. 3. Đối với các bài toán về chuyển động. Mục đích của các bài toán này là giúp học sinh giải toán chuyển động dựa vào những trải nghiệm thực tế của mình. Hơn nữa, các em còn nắm chắc được dạng toán, hiểu bản chất của vận tốc, quãng đường, thời gian và mối quan hệ giữa vận tốc, quãng đường và thời gian. Ví dụ: * Bài toán 1: Một thuyền máy đi xuôi dòng từ A đến B. Vận tốc của thuyền máy khi nước lặng là 22,6km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2km/giờ. Sau 1 giờ 15 phút thì thuyền máy đến B. Tính độ dài quãng đường AB. Đây là bài toán trong SGK toán 5 trang 162 có thêm phần hướng dẫn như sau: Vận tốc của thuyền máy khi xuôi dòng bằng tổng vận tốc của thuyền máy khi nước lặng và vận tốc của dòng nước. Nếu như giáo viên chỉ cho học sinh đọc hướng dẫn này để áp dụng vào bài toán thì học sinh không hiểu tại sao vận tốc xuôi dòng lại bằng tổng vận tốc của thuyền máy khi nước lặng và vận tốc dòng nước hay ngược lại vận tốc ngược dòng bằng hiệu vận tốc của thuyền máy khi nước lặng và vận tốc dòng nước. Để giúp học sinh hiểu rõ cách tính này tôi đã có những câu hỏi khơi gợi để học sinh từ thực tế trong chính chuyển động của mình các em sẽ giải đáp được ngay thắc mắc của các em. Đó là: - Những hôm đi đến trường bằng xe đạp, khi xuôi gió, các con thấy thế nào? (Đạp xe nhẹ hơn và, xe bon bon nhanh hơn ) - Tại sao con lại thấy đi xe đi nhanh hơn ? ( Gió đẩy con đi ) - Những hôm đi đến trường bằng xe đạp, trời có gió mà con đi ngược gió con thấy ra sao ? ( Đạp rất nặng và xe đi chậm hơn con mong muốn ) - Tại sao con đi chậm hơn mong muốn ? ( Gió cản và đẩy con lại) Từ những câu trả lời của học sinh, tôi thấy rõ ràng các con đã hiểu, biết áp dụng kiến thức thực tế, kinh nghiệm sống hàng ngày để giải thích những tình huống, những câu hỏi trong học tập. Các con hiểu rõ ràng rằng: Khi đi xuôi gió đi nhanh hơn do có thêm vận tốc của gió, ngược lại khi đi ngược gió cản phải trừ bớt vận tốc của gió. Từ thực tế này tôi hình thành công thức cho học sinh dễ dàng, các con hiểu được gốc rễ vấn đề. V(xuôi dòng ) = V( thực) + V(dòng nước) V(ngược dòng ) = V( thực) - V(dòng nước) Bằng những gợi ý tưởng chừng nhỏ như thế này nhưng lại rất hữu ích cho các em. Học sinh thấy được toán rất sát rất gần với cuộc sống hàng ngày và phục vụ cuộc sống hàng ngày. Học sinh áp dụng vào giải toán sẽ dễ dàng và chính xác hơn. Bài giải Đổi: 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ Vận tốc thuyền máy lúc xuôi dòng là: 22,6 + 2,2 = 24,8 (km/giờ) Quãng sông AB dài là: 24,8 x 1,25 = 31 (km) Đáp số: 31km * Bài toán 2: Một người dự định đi từ địa điểm A đến địa điểm B hết thời gian là 4 giờ. Nhưng khi đi, người đó đi với vận tốc lớn gấp 3 lần vận tốc dự định. Hỏi người đó đã đi từ A đến B hết bao nhiêu thời gian? Với bài toán này nếu học sinh không có hiểu biết thực tế về chuyển động sẽ rất khó tìm được đáp số của bài toán mặc dù các bước giải của bài toán rất gọn gàng và không mấy khó khăn. Để giải bài toán này học sinh phải nắm được mối quan hệ giữa hai đại lượng vận tốc và thời gian. Trước khi hướng dẫn học sinh giải bài này tôi đưa ra bài toán nhỏ bằng chính hoạt động chuyển động của các em hàng ngày như sau: Bài toán: Quãng đường từ nhà bạn Nam đến trường dài 3km. Hỏi bạn Nam đi đến trường hết bao nhiêu thời gian? - Nếu bạn Nam đi bộ với vận tốc 5km/h. - Nếu bạn Nam đi đến trường bằng xe đạp với vận tốc 6km/h. - Nếu bạn Nam được bố đèo bằng xe máy đến trường với vận tốc 30km/h. *Học sinh của tôi dễ dàng tìm được đáp số của bài toán. s 3 km 3 km 3 km v 5km/h 6 km/h 30 km/ h t 0,6 giờ =36 phút 0,5 giờ = 30 phút 0,1 giờ = 6 phút Hơn nữa bằng thực tế hàng ngày, các em đến trường các em thấy rõ rằng: các em đi càng nhanh thì thời gian càng ít. Cụ thể: 30km/h gấp 6 km/h số lần là: 30 : 6 = 5 (lần) Khi đi 5km với vận tốc 30km/h hết số thời gian là: 30 : 5 = 6 (phút ) Từ những kinh nghiệm hàng ngày kết hợp giải bài toán nhỏ các em rút ra được: Trên cùng một quãng đường, vận tốc và thời gian là 2 đại lượng tỉ lệ nghịch. Học sinh dễ dàng giải được bài toán nêu trên. Bài giải: Trên cùng một quãng đường, vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch. Mà vận tốc gấp lên 3 lần nên thời gian giảm đi 3 lần. Người đó đi từ A đến B hết số thời gian là 4: 3 = 43 ( giờ) Đổi 43= 1 giờ 20 phút Đáp số:1 giờ 20 phút Quan trọng hơn nữa, từ vốn sống thực tế học sinh áp dụng vào giải bài toán trên, các em nắm bắt được bản chất, nắm rõ được kiến thức nên các em giải bài toán khó cũng dễ dàng hơn rất nhiều. * Bài toán ứng dụng : Một tàu thủy đi xuôi dòng từ bến A- B hết 10 giờ và từ bến B về bến A hết 15 giờ. Vận tốc ngược dòng kém vận tốc xuôi dòng là 8km/h Hãy tính: a) Vận tốc tàu thủy khi đi xuôi dòng, ngược dòng nước. b) Khoảng cách giữa bến A và bến B. Ở bài toán này học sinh phải kết hợp 2 điều kiện: - Xuôi dòng =V(thực)+ V(dòng nước) - Ngược dòng =V(thực ) –V(dòng nước) - Trên cùng một quãng đường, vận tốc và thời gian là hai đại lượng tỉ lệ nghịch. Xuất phát từ những hiểu biết qua hai bài toán trên các em đưa ra được ngay cách giải, cùng với đó các em cũng biết áp dụng những hiểu biết trong cuộc sống và ngược lại đưa bài toán trở nên gần gũi với cuộc sống hơn. Bài giải: T (xd)T (ngd ) = 1015 =23 => V(ngd)V ( xd) =32 Hiệu số phần bằng nhau là: 3 - 2 = 1(phần) Vận tốc xuôi dòng là: 8 x 3 = 24 (km) Vận tốc ngược dòng là: 8 x 2 = 16 (km) Khoảng cách giữa hai bến A và B là: 24 x 10 = 240 (km) Đáp số: 24km/giờ; 16km/ giờ; 240km Nhờ vậy, qua những bài toán nêu trên, tôi đã phân tích và minh chứng rõ ràng 1 điều là: - Giúp học sinh học Toán một cách tốt nhất và hứng thú nhất, có rất nhiều cách thức, phương pháp nhưng không thể bỏ qua những kiến thức, vốn sống thực tế. Chính phương pháp này đã đưa môn toán trở nên gần gũi với học sinh hơn. - Học sinh đưa được kiến thức toán đã học áp dụng vào cuộc sống làm cho các em thấy rõ được vai trò tích cực của môn Toán. - Học sinh hứng thú học hơn khi đã hiểu bài, nắm được bản chất toán học hơn. Quan trọng hơn nữa: Trong chương trình Toán lớp 5 tính ứng dụng thực tế còn được thể hiện qua nhiều dạng toán nữa như Tỉ số phần trăm. Học sinh học cách giải toán Tỉ số phần trăm khi mua bán sản phẩm nếu được giảm 40% hay 50% hoặc 70% các em có thể tích được giá sản phẩm ngay tức khắc. Như vậy, nếu dạy toán mà giáo viên ứng dụng thực tế để giải toán cũng như đưa kiến thức Toán ứng dụng vào thực tế cuộc sống tôi tin chắc rằng học sinh sẽ nắm rất chắc kiến thức được học và sẽ xác định đúng mục đích khi học Toán. Lúc ấy các em sẽ hào hứng học hơn. PHẦN C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Trên đây là một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học môn Toán ở lớp 5. Khi áp dụng các giải pháp này vào dạy học Toán bản thân tôi đã tự nhận thấy mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp cho việc nâng cao chất lượng giảng dạy môn Toán. Tôi thấy trong mỗi giờ dạy bản thân mình cũng đam mê, hứng thú trong việc cung cấp cho các em những kiến thức mới – kiến thức thực tế; chủ động trong việc lựa chọn các phương pháp dạy học. Hơn nữa tôi đã tạo được hứng thú cho học sinh khi học môn học này. Đặc biệt nhờ sự hướng dẫn của tôi, đã làm cho những giờ học trở nên thoải mái, sôi nổi, hiệu quả ngày càng tăng. Chất lượng học tập của các em ngày càng được nâng lên, hạn chế tình trạng học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, máy móc. Trong giờ học không còn hiện tượng học sinh ngủ gật, uể oải hay mất tập trung trong học tập. Số lượng học sinh yêu thích môn toán ngày một tăng lên. Ngoài ra, tôi cũng nhận được phản hồi từ phía phụ huynh về việc con em họ rất yêu thích môn học, hào hứng tìm hiểu kiến thức toán học dựa trên sự hướng dẫn của tôi và tinh thần tự giác tìm hiểu của các em. Đặc biệt hơn nữa, các em thích giúp bố mẹ tính toán các phần việc xây dựng nhà cửa. Sự hứng thú học tập của các em khiến phụ huynh cũng cảm thấy sự cần thiết phải vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn cuộc sống. Với sự vận dụng các phương pháp nêu trên, kết quả học tập của học sinh ở giữa học kì II đã thực sự nâng cao về chất lượng so với khi chưa áp dụng sáng kiến, kết quả cụ thể như sau: ( Minh chứng kèm theo: Bảng 2) II. KẾT LUẬN Việc nghiên cứu để rút ra những giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học Toán lớp 5 nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích phục vụ trong công tác giảng dạy là một việc làm hết sức quan trọng và có ý nghĩa vô cùng to lớn. Kết quả của những kinh nghiệm đó là: Trước hết người giáo viên phải tâm huyết với nghề, luôn tìm tòi học hỏi cập nhật vấn đề mới của xã hội. Mạnh dạn thay đổi nội dung, phương pháp cũng như hình thức tổ chức của giáo viên và sự phối kết hợp của phụ huynh để học sinh có cơ hội hoạt động, trải nghiệm và hình thành năng lực, đưa Toán học đến với thực tiễn. Khơi dậy lòng say mê thích học hỏi của học sinh làm cho học sinh cảm thấy thực sự yêu trường, yêu lớp, yêu thích môn học, không nên gò ép các em theo một khuôn thước nhất định. Biết trân trọng sự sáng tạo của học sinh. Tổ chức tốt việc áp dụng các kiến thức toán học vào thực tiễn không chỉ làm cho các em hứng thú hơn trong học tập mà còn giúp các em tự tin hơn, có được cơ hội tự khẳng định mình và tự đánh giá nhau trong học tập. Trên tất cả, tôi mong rằng không phải tôi áp dụng đề tài này để nâng cao chất lượng dạy học của bản thân lớp tôi chủ nhiệm mà cao hơn nữa đó là đưa đến với tất cả những giáo viên nói chung và giáo viên Tiểu học nói riêng những suy nghĩ tâm huyết của một người giáo viên yêu toán học, luôn mong muốn thế hệ trẻ của Việt Nam sau này cũng sẽ yêu toán học để góp phần làm tiền đề cho việc bồi dưỡng nhân tài – Thế hệ măng non của đất nước. III. ĐỀ XUẤT VÀ KHUYẾN NGHỊ Để thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học và chất lượng dạy học môn Toán tiếp tục được nâng cao, tôi mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau: 1. Đối với các cấp quản lý: Cần tổ chức một số chuyên đề có sử dụng lồng ghép một số ứng dụng thực tế Toán học. Giáo viên sau khi học tập nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ (ở các lớp học cao đẳng, đại học...) cần có chế độ chính sách rõ ràng, tạo điều kiện cho họ yên tâm công tác) thúc đẩy ý thức tự học ở mỗi người. Tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn về đổi mới phương pháp dạy học cho đội ngũ giáo viên. Nên tạo điều kiện cho GV các trường, cụm chuyên môn giao lưu, sinh hoạt chuyên môn với nhau từ đó giúp giáo viên có cơ hội học tập, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Đối ban giám hiệu và các cấp lãnh đạo cần kịp thời động viên khen thưởng những giáo viên có thành tích trong việc nâng cao chất lượng dạy và học. Nhà trường cần tạo điều kiện hơn nữa về cơ sở vật chất để học sinh còn hạn chế về năng lực phẩm chất được phụ đạo thường xuyên. 2. Đối với giáo viên: Phải kiên trì thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. Cần nắm bắt rõ năng lực học tập của từng đối tượng học sinh để giảng dạy có hiệu quả. Tự học và tự bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ của bản thân góp phần nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường. Trên đây là kinh nghiệm của tôi về “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học môn Toán ở lớp 5.”, tôi sẽ tiếp tục áp dụng kinh nghiệm này để nâng cao chất lượng dạy học môn Toán. Do thời gian nghiên cứu, kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế nên chắc chắn trong đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong hội đồng khoa học các cấp góp ý để đề tài của tôi được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! CÁC MINH CHỨNG BẢNG 1: BẢNG SỐ LIỆU ĐIỀU TRA TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Thời điểm KS TSHS Điểm 9 -10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % Đầu năm học Tháng 9/2022 35 8 22,9 8 22,9 12 34,2 7 20 BẢNG 2: BẢNG SỐ LIỆU SO SÁNH ĐỐI CHIẾU TRƯỚC VÀ SAU KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP Thời điểm KS TSHS Điểm 9 -10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm dưới 5 SL % SL % SL % SL % Đầu năm học Tháng 9/2022 35 8 22,9 8 22,9 12 34,2 7 20 Giữa HKII Tháng 3/2023 35 20 57,1 10 28,6 5 14,3 0 0 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Phương pháp dạy học toán ở Tiểu học- Tác giả Vũ Quốc Chung. 2. Sách giáo khoa Toán 5 NXB Giáo dục 3. Tác giả Phạm Thị Hồng Vinh (2007) - Phương pháp dạy học - Giáo dục học, NXB ĐHSP, Hà Nội 4. Tác giả Nguyễn Trọng Tấn (dịch 2005" Cẩm nang thực hành giảng dạy", NXB ĐHSP Hà Nội). 5. Tài liệu “Một số giải pháp nâng cao tính ứng dụng thực tế trong dạy học toán lớp 5.”. 6. Trần Duy Hưng trong bài báo ở Tạp chí Giáo dục số7/1999 và số 4/2000 có đề cập “Nhóm nhỏ và việc tổ chức cho học sinh theo các nhóm nhỏ” “Mô hình phương pháp dạy học nhóm nhỏ”. MỤC LỤC NỘI DUNG Trang PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ I . Lý do chọn đề tài 1 II . Mục đích nghiên cứu 2 III.Thời gian nghiên cứu 2 IV. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2 V. Phương pháp nghiên cứu 2 PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 3 I . Cơ sở lý luận 3 II. Thực trạng 4 III. Các giải pháp thực hiện. 5 1. Đối với các bài toán có nội dung hình học. 5 2. Đối với các bài toán về thể tích. 10 3. Đối với các bài toán về chuyển động. 12 PHẦN C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 16 I. Kết quả đạt được 16 II. Kết luận 17 III. Đề xuất và khuyến nghị 17
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_tinh_ung_dun.docx