Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy toán điển hình cho học sinh lớp 4
Môn Toán là môn học chiếm một vị trí rất quan trọng trong chƣơng trình các
môn học bậc Tiểu học. Các kiến thức kĩ năng của môn toán ở Tiểu học có nhiều
ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần cho ngƣời lao động, rất cần thiết để học các
môn học khác ở tiểu học và các lớp trên. Môn Toán giúp học sinh (HS) nhận biết
các mối quan hệ về số lƣợng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ
đó mà HS có phƣơng pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết
cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. Môn Toán góp phần rất quan trọng
trong việc rèn luyện các phƣơng pháp: suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề. Nó
góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Nó
đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của ngƣời lao
động nhƣ: cần cù, cẩn thận, có ý chí vƣợt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề
nếp và tác phong khoa học.
Đặc biệt, việc dạy HS giải toán ở Tiểu học có vai trò then chốt trong quá
trình dạy – học toán. Bởi việc giải toán giúp HS vận dụng những kiến thức về toán,
đƣợc rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu đƣợc thể hiện một cách đa
dạng, phong phú. Nhờ việc giải toán mà HS có điều kiện rèn luyện và phát triển
năng lực tƣ duy, rèn luyện phƣơng pháp suy luận.
môn học bậc Tiểu học. Các kiến thức kĩ năng của môn toán ở Tiểu học có nhiều
ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần cho ngƣời lao động, rất cần thiết để học các
môn học khác ở tiểu học và các lớp trên. Môn Toán giúp học sinh (HS) nhận biết
các mối quan hệ về số lƣợng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ
đó mà HS có phƣơng pháp nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh và biết
cách hoạt động có hiệu quả trong đời sống. Môn Toán góp phần rất quan trọng
trong việc rèn luyện các phƣơng pháp: suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề. Nó
góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo. Nó
đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của ngƣời lao
động nhƣ: cần cù, cẩn thận, có ý chí vƣợt khó khăn, làm việc có kế hoạch, có nề
nếp và tác phong khoa học.
Đặc biệt, việc dạy HS giải toán ở Tiểu học có vai trò then chốt trong quá
trình dạy – học toán. Bởi việc giải toán giúp HS vận dụng những kiến thức về toán,
đƣợc rèn luyện kĩ năng thực hành với những yêu cầu đƣợc thể hiện một cách đa
dạng, phong phú. Nhờ việc giải toán mà HS có điều kiện rèn luyện và phát triển
năng lực tƣ duy, rèn luyện phƣơng pháp suy luận.
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy toán điển hình cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy toán điển hình cho học sinh lớp 4

sản phẩm là: (1200 + 120) : 2 = 660 (sản phẩm) Phân xƣởng thứ nhất làm đƣợc số sản phẩm là: 1200 - 660 = 540 (sản phẩm) Đáp số: Phân xƣởng 1: 540 sản phẩm Phân xƣởng 2: 660 sản phẩm 20/28 Cách 5: Phân xƣởng thứ nhất làm đƣợc số sản phẩm là: (1200 – 120): 2 = 540 (sản phẩm) Phân xƣởng thứ hai làm đƣợc số sản phẩm là: (1200 + 120) : 2 = 660 (sản phẩm) Đáp số: Phân xƣởng 1: 540 sản phẩm Phân xƣởng 2: 660 sản phẩm Nhƣ vậy các em đã tìm ra 5 cách giải cho bài toán. Có thể không phải cả lớp đều tìm ra 5 cách giải cho bài toán nhƣng qua việc các bạn nêu các cách giải đó, các bạn khác cũng phần nào hiểu thêm đƣợc bài. Với các bài toán có nhiều cách giải, nếu bài không yêu cầu HS phải giải bằng nhiều cách thì khi HS nêu cách giải khác, tôi luôn ghi nhanh cách giải khác lên bảng để HS quan sát và tìm hiểu. Nhƣng không phải với bài toán nào HS cũng tự tìm đƣợc cách giải khác. Lúc này tôi thƣờng gợi ý cho HS để khuyến khích HS tìm đƣợc cách giải khác nếu nhƣ các em đó đã hoàn thành xong đƣợc cách giải của mình. 5.2. Hướng dẫn HS lập đề toán Việc HS tự lập đề toán rất thƣờng gặp ở tiểu học. Việc đó không những giúp các em phát triển tƣ duy độc lập, mà còn giúp phát triển tinh linh hoạt, sáng tạo của tƣ duy. Hơn nữa, cho các em tự lập đề toán còn gây hứng thú học tập, làm cho HS nắm vững hơn cấu trúc, cách giải bài toán, tạo điều kiện gắn với cuộc sống, vì các em phải tìm hiểu đời sống, chọn số liệu trong đời sống để đặt đề toán, tập tự mình nêu vấn đề, giải quyết vấn đề nhƣ cuộc sống thƣờng đòi hỏi. Việc HS lập đƣợc đề toán là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá xem HS đã thực sự nắm đƣợc “dạng toán mới”chƣa? Việc cho HS tự lập đề toán có thể tiến hành từ đơn giản đến phức tạp, với những hình thức sau: + Đưa ra bài toán thiếu số liệu, HS tự tìm số liệu, điền vào rồi giải. Ví dụ khi dạy dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”, tôi đƣa ra bài toán sau: Điền số thích hợp vào chỗ chấm trong bài toán : “Tổng hai số là...., hiệu hai số là 20. Tìm hai số đó. + Đưa ra bài toán thiếu câu hỏi, HS tự đặt câu hỏi rồi giải. Ví dụ khi dạy dạng toán “Tìm số trung bình cộng” tôi đƣa ra bài toán sau: 21/28 “Trong đợt thi đua làm kế hoạch nhỏ vừa qua, lớp 4A thu nhặt đƣợc 12 kg, lớp 4B thu nhặt đƣợc 14 kg, lớp 4C thu nhặt đƣợc 16 kg.” Em hãy đặt câu hỏi sao cho bài toán giải bằng: a) Một phép tính, rồi giải. b) Hai phép tính, rồi giải. + Cho HS tự lập đề toán theo tóm tắt rồi giải. Ví dụ khi dạy dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”, tôi đƣa ra bài toán sau: Dựa vào sơ đồ sau, hãy đặt đề cho bài toán rồi giải: Thùng 1: Thùng 2: + Tự lập đề toán theo một cách giải đã cho sẵn: Ví dụ khi dạy dạng toán “Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó”, tôi đƣa ra bài toán sau: Hãy nghĩ một đề toán trong đó có cách giải nhƣ sau: (34 + 16) : 2 = 25 34 – 25 = 9 + Cho HS tự lập đề tương tự đề vừa làm Ví dụ khi dạy dạng toán “ Tìm hai số biết tổng và hiệu của hai số đó”. Sau khi cho HS làm bài toán: Tuổi chị và tuổi em cộng lại đƣợc 36 tuổi. Em kém chị 8 tuổi. Hỏi chị bao nhiêu tuổi, em bao nhiêu tuổi? Tôi yêu cầu HS đặt một đề toán tƣơng tự nhƣ trên rồi giải. + Cho HS tự lập đề toán theo tên của dạng toán: Ví dụ : Lập một đề toán dạng “ Tìm hai số biết hiệu và tỉ số của hai số đó” với hiệu là 9 và tỉ số là 3 2 ? Với yêu cầu này có HS của lớp tôi đã đặt đề toán nhƣ sau: Trong lớp 4G số học sinh nam hơn số học sinh nữ là 9 bạn, tỉ số giữa học sinh nam và học sinh nữ là 3 2 . Hỏi lớp 4G có bao nhiêu bạn nam, bao nhiêu bạn nữ? + Cho HS lập đề toán theo yêu cầu của giáo viên, dựa vào những điều quan sát được, tự thu nhập được. 5.3. Hướng dẫn HS biến đổi đề toán Để phát huy năng lực, khả năng sáng tạo của HS, tôi còn hƣớng dẫn HS biến đổi đề toán. ? l ? l 180 l 22/28 Sau khi giải xong mỗi bài toán, tôi thƣờng hƣớng dẫn HS dựa vào bài toán đó mà tự nghĩ ra các bài toán mới tƣơng tự với bài toán vừa giải. Bởi tôi nghĩ đây là biện pháp rất tốt để HS nắm vững cách giải các bài toán cùng loại, giúp HS nắm vững hơn mối quan hệ giữa các đại lƣợng và những quan hệ bản chất trong mỗi loại toán. Nhờ thế mà HS hiểu bài toán sâu sắc hơn rất nhiều. Để làm đƣợc điều này, tôi hƣớng dẫn HS một vài cách sau: + Thay đổi các số liệu đã cho + Thay đổi đối tƣợng trong đề toán + Thay đổi cả đối tƣợng lẫn số liệu + Thay đổi các từ chỉ quan hệ trong đề toán. Chẳng hạn: Khi dạy Bài 1 – trang 47, SGK toán 4 Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 58 tuổi. Bố hơn con 38 tuổi. Hỏi bố bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi? Sau khi HS giải bài toán, nhận xét, đánh giá, chốt bài giải đúng xong, tôi gợi ý HS biến đổi đề toán theo các cách trên (gợi ý từng cách) HS lớp tôi đã lập đƣợc đề toán khác nhƣ: Tuổi mẹ và tuổi con cộng lại được 58 tuổi. Mẹ hơn con 38 tuổi. Hỏi mẹ bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi? (thay đổi đối tƣợng) Tuổi bố và tuổi con cộng lại được 68 tuổi. Bố hơn con 28 tuổi. Hỏi bố bao nhiêu tuổi, con bao nhiêu tuổi? (thay đổi số liệu) Tuổi ông và tuổi bố cộng lại được 124 tuổi. Ông hơn bố 32 tuổi. Hỏi ông bao nhiêu tuổi, bố bao nhiêu tuổi? (thay đổi cả đối tƣợng và số liệu) Khi mẹ sinh con thì mẹ 26 tuổi. Năm nay, tuổi mẹ và tuổi con cộng lại bằng 58 tuổi. Tính tuổi của mỗi người hiện nay. (thay đổi các từ chỉ quan hệ trong đề toán) * Tôi lƣu ý với HS khi biến đổi đề không đƣợc thay đổi dạng toán và các số liệu phải phù hợp với thực tế. 6. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh Nắm đƣợc tâm lý HS rất hiếu động, thích thể hiện mình. Khi đƣợc khuyến khích, động viên HS thƣờng có những biểu hiện rất tích cực, tiếp thu kiến thức một cách thoải mái, tự nhiên. Chính vì vậy, trong quá trình dạy học nói chung và giải toán, tôi luôn chú ý phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh vì có nhƣ vậy thì việc học giải toán mới đem lại kết quả cao. 6.1. Linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động học tập Trong quá trình dạy học, để tránh sự nhàm chán trong học sinh, tôi luôn linh hoạt trong việc tổ chức các hoạt động học tập bằng nhiều hình thức khác nhau, 23/28 phù hợp nội dung bài học tạo không khí sôi nổi cho tiết học. Có những bài toán tôi yêu cầu HS làm việc cá nhân nhƣng có bài tôi lại tổ chức cho các em thảo luận nhóm để các em trao đổi với bạn, chia sẻ, kiểm tra hiểu biết của mình từ đó giúp nhau tìm ra đáp án đúng. Chẳng hạn: Khi dạy Bài toán 3 - trang 149, SGK toán 4: Tổng của hai số là 72. Tìm hai số đó, biết rằng nếu số lớn giảm đi 5 lần thì được số bé. Sau khi yêu cầu HS đọc đề, tôi tổ chức cho HS thảo luận nhóm 2 để trả lời đƣợc: Bài toán thuộc dạng toán gì? Cách giải dạng toán này như thế nào? Với cách làm đó HS lớp tôi các em đã nhận ra đƣợc dạng toán này là dạng “Tìm hai số khi biết tổng và tỉ số của hai số đó”. Cách giải dạng này thế nào? Vậy là qua thảo luận các em đã giúp nhau nhớ lại kiến thức đã học áp dụng làm bài. Tôi thƣờng yêu cầu HS thảo luận nhóm khi gặp bài toán khó. Cũng có khi tôi yêu cầu HS giải toán dƣới dạng trò chơi để kích thích HS học tập nhƣ thi xem tổ nào nhiều bạn giải đúng và nhanh nhất Thƣờng xuyên kiểm tra, động viên khen thƣởng HS kịp thời (phần thƣởng là chiếc bút chì, hoặc thƣớc kẻ.) đây cũng là những hình thức dạy học tôi thƣờng sử dụng. 6.2. Quan tâm đến tất cả các đối tượng HS trong lớp Mỗi lớp học thƣờng có đủ các đối tƣợng với trình độ nhận thức khác nhau. Ngƣời giáo viên giỏi là ngƣời khơi dậy và phát huy đƣợc năng lực và sở trƣờng của từng em, giúp các em học tập tốt hơn. Khi nêu câu hỏi tìm kiến thức mới (hoặc khi chữa bài tập) tôi ƣu tiên mời những em yếu hơn trả lời (hoặc chữa những bài tập) dễ. Trong khi các em trả lời (hoặc chữa bài), tôi luôn theo dõi và gợi ý nhẹ nhàng để HS hiểu ra và tự điều chỉnh lại cho đúng. Trong tiết học, tôi luôn chú ý việc phân hoá đối tƣợng. Giao thêm bài tập cho HS hoàn thành bài nhanh (nếu còn thời gian) giúp đỡ các HS làm chậm hơn. Động viên khích lệ, tuyên dƣơng các em mỗi khi các em làm bài đúng hoặc nêu ý kiến chính xác. Đối với những HS có năng lực tôi dành cho các em các câu hỏi khó, các bài tập có thể giải nhiều cách phát huy trí thông minh, óc sáng tạo của các em. Với cách làm nhƣ vậy học sinh thấy mình đƣợc quan tâm hơn, tự tin hơn trong học tập, phát huy đƣợc khả năng hiểu biết của mình. Bên cạnh đó, tôi còn quan tâm đến phát huy vai trò của đội ngũ cán sự, những HS có năng khiếu toán học thành lập các đôi bạn cùng tiến, tạo điều kiện cho các em thể hiện khả năng của mình, giúp bạn học toán. Ngay từ đầu năm, tôi đã chú ý tìm hiểu khả năng học toán nói chung, học toán có lời văn nói riêng của từng 24/28 HS. Tôi tiến hành phân nhóm HS theo từng đối tƣợng. Phân công bạn học nhanh, tiếp thu tốt giúp đỡ các bạn còn lúng túng khi làm bài. Lớp tôi đã thành lập đƣợc 9 đôi bạn cùng tiến. Khi thành lập các đôi bạn này, tôi sắp xếp làm sao để các em giúp nhau có hiệu quả nhất: các em có tính cách phù hợp, các em sống gần nhà nhau, cùng bàn,.. Các đôi bạn cùng tiến có thể giúp nhau học tập ở trên lớp, hoặc khi chuẩn bị bài ở gia đình. 7. Phối hợp với tổ chuyên môn, cha mẹ học sinh Với tổ chuyên môn, khi sinh hoạt tổ chuyên môn, tôi thƣờng cùng các đồng nghiệp trong tổ bàn bạc bài dạy, cùng nêu ra những khó khăn gặp phải trong quá trình dạy học giải toán và đƣa ra biện pháp khắc phục. Đồng thời, tôi còn bàn với đồng nghiệp cùng xây dựng những tiết học Hội vui học tập thực hiện vào tiết hoạt động tập thể, thiết kế câu hỏi toán học dƣới dạng trò chơi, hái hoa dân chủ,. giúp HS ôn lại những kiến thức toán học và ôn lại cách giải toán. Học sinh đƣợc học mà chơi, chơi mà học. Các em đƣợc luyện tập các kiến thức toán học một cách nhẹ nhàng. Việc giáo dục HS không chỉ riêng của nhà trƣờng, của giáo viên mà còn rất cần sự quan tâm, giúp đỡ, phối hợp của cha mẹ HS. Luôn ý thức đƣợc điều đó nên trong các cuộc họp cha mẹ HS tôi đã hƣớng dẫn cha mẹ HS cách giúp con mình học tập. Ngoài ra, tôi còn thƣờng xuyên liên lạc với cha mẹ HS để trao đổi về tình hình học tập và rèn luyện của con, đề nghị cha mẹ HS giúp ôn luyện những kiến thức con mình còn chƣa chắc, hay nhầm lẫn,.Với việc làm đó cha mẹ các em đã quan tâm đến con mình hơn và giúp HS học tiến bộ hơn. IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Trên đây là một số giải pháp nâng cao chất lƣợng dạy toán điển hình cho học sinh lớp 4 mà tôi đã tiến hành từ đầu năm đến nay. Với những biện pháp sát thực và sự nỗ lực của học trò việc giải các bài toán điển hình của lớp tôi đã có tiến triển tốt. Cho đến nay, tất cả HS trong lớp đã biết giải toán điển hình, tuy nhiên vẫn còn một số em giải chƣa nhanh cần phải có sự hƣớng dẫn của cô giáo khi có bài toán phức tạp. Song kết quả đạt đƣợc này đã cho thấy các em có tiến bộ đáng mừng. Tôi tin rằng: dƣới sự hƣớng dẫn của mình, cùng với tinh thần học tập tích cực của HS, nhất định kết quả học giải toán của lớp tôi sẽ đạt kết quả cao hơn nữa. Hiện nay, các em HS lớp tôi đã hào hứng hơn khi học toán. Những học sinh yếu đã mạnh dạn, tự tin hơn kết quả học tập có nhiều tiến bộ. Để có kết quả cụ thể hơn, tôi đã tổ chức cho HS lớp mình làm bài kiểm tra giải toán. Tôi đƣa ra hệ thống bài tập 25/28 cho học sinh làm. Các bài tập đƣợc thiết kế lần lƣợt từ dễ đến khó. Cụ thể gồm 3 bài: + 1 bài dễ (bài toán dạng cơ bản không, có đơn vị) + 1 bài khó hơn (bài toán dạng cơ bản, có đơn vị ). + 1 bài các dữ kiện chƣa tƣờng minh (cần phải có bƣớc tính trung gian). Kết quả nhƣ sau: * Cuối học kì I: Trong tổng số 58 học sinh có: Giải đúng cả ba bài Giải đúng hai bài đầu, sai bài 3 Chỉ giải đúng bài 1 25 em 18 em 15 em * Cuối tháng 3/2017: Trong tổng số 58 học sinh có: Giải đúng cả ba bài Giải đúng hai bài đầu, sai bài 3 Chỉ giải đúng bài 1 42 em 11 em 5 em 26/28 C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. KẾT LUẬN Dạy học là một nghệ thuật. Nếu mỗi ngƣời giáo viên biết linh hoạt tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với đặc trƣng, phƣơng pháp bộ môn, phù hợp với đối tƣợng học sinh để phát huy đƣợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của các em thì đó chính là ngƣời nghệ sĩ tài ba. Do vậy mỗi giáo viên cần lựa chọn cho mình một phƣơng án sƣ phạm phù hợp từng bài dạy nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của ngƣời học. Từ những kinh nghiệm thực tế giảng dạy, cùng với việc thực hiện các biện pháp dạy - học áp dụng dạy học giải các bài toán dạng điển hình lớp 4. Tôi rút ra cho mình một số kinh nghiệm sau: 1. Bản thân giáo viên phải thật sự tâm huyết với nghề, phải có lòng yêu nghề và yêu mến trẻ. 2. Phải hiểu đƣợc đặc điểm tâm lí lứa tuổi và hoàn cảnh gia đình, năng lực của từng HS để có biện pháp giáo dục, dạy học phù hợp. 3. Phải có vốn kiến thức vững vàng. Nắm chắc nội dung chƣơng trình, mục tiêu, nhiệm vụ của môn toán Tiểu học nói chung và của toán 4 nói riêng. 4. Chú trọng việc xây dựng cho HS thói quen thực hiện các bƣớc giải một bài toán. 5. Quan tâm đến việc hình thành và vận dụng quy tắc giải toán. 6. Luôn quan tâm đến việc rèn kĩ năng, kĩ xảo trong giải bài toán có lời văn cho học sinh. Đặc biệt là các dạng toán điển hình. 7. Thƣờng xuyên cập nhật và lựa chọn hệ thống bài tập sao cho phù hợp với học sinh mình dạy để đạt hiệu quả thực sự. 8. Biết phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. 9. Khi dạy học phải biết lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên đóng vai trò là ngƣời tổ chức hoạt động của học sinh. 10. Ngƣời giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tự tìm hiểu, nghiên cứu để nâng cao trình độ, tay nghề. Có nắm chắc kiến thức, giáo viên mới có thể dạy một cách có hiệu quả. II. KHUYẾN NGHỊ Dựa vào thực tế giảng dạy, tôi xin có vài đề xuất với các cấp lãnh đạo nhƣ sau: - Tổ chức phổ biến rộng rãi những sáng kiến kinh nghiệm chất lƣợng để giáo viên học tập, áp dụng trong dạy học. - Tổ chức nhiều chuyên đề dạy toán để giáo viên học tập. 27/28 Trên đây là “Một số giải pháp nâng cao chất lƣợng dạy toán điển hình cho học sinh lớp 4” tôi đã tìm tòi và thực hiện. Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài chắc chắn không tránh đƣợc những thiếu sót rất mong đƣợc sự góp ý của các cấp lãnh đạo và các bạn đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Tôi xin cam đoan đây là Sáng kiến kinh nghiệm tôi viết. Tôi không sao chép nội dung của người khác. Hà Nội, ngày 31 tháng 3 năm 2017 28/28 D . TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Toán 4- Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2. Sách giáo viên Toán 4 - Bộ Giáo dục và Đào tạo. 3. Phƣơng pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học- Nhà xuất bản Giáo dục. 4. Hỏi đáp về dạy học Toán 4 - Nhà xuất bản Giáo dục. 5. 200 câu hỏi đáp về dạy Toán ở Tiểu học- Nhà xuất bản Giáo dục. 6. Tạp chí Giáo dục Tiểu học. 7. Giải bài toán ở Tiểu học nhƣ thế nào? – Nhà xuất bản Giáo dục. 8. Các dạng toán cơ bản ở Tiểu học lóp 4 – Nhà xuất bản Giáo dục. 9. Toán nâng cao lớp 4 – Nhà xuất bản Giáo dục.
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_d.pdf