Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh lớp 2
Năm học 2022-2023 là năm thứ hai lớp 2 thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Mục tiêu của chương trình lớp 2 là dạy và học theo hướng phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh. Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học theo chương trình sách giáo khoa mới là một nhiệm vụ hết sức cấp thiết và phải được thực hiện ở tất cả các môn học, đặc biệt là môn Toán. Yêu cầu đặt ra đối với giáo viên là phải thực sự đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh, còn giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn để hoạt động học tập diễn ra “nhẹ nhàng hơn, tự nhiên hơn và chất lượng hơn” nhằm phát huy khả năng tư duy, tự tìm tòi, tự khám phá tri thức của học sinh.
Trong thực tế dạy học, qua những năm giảng dạy môn Toán ở lớp 2 vàtrao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp qua các tiết dự giờ, tôi thấy một số học sinh trong quá trình học còn thụ động, không ham thích học môn Toán qua các tiết dự giờ, tôi thấymột số học sinh trong quá trình học còn thụ động, chưa hamthích học môn Toán. Có em còn lúng túng khi tham gia các hoạt động học tập, chưa linh hoạt vận dụng kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống. Vì vậy, mỗi giáo viên cần phải tích cực đổi mới phương pháp dạy học theo hướng lấy học sinh làm trung tâm. Trên cơ sở đó hướng dẫn học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài học một cách nhanh nhẹn, nhạy bén để tự chiếm lĩnh kiến thức mới. Học sinh có thể vận dụng các kiến thức đã học để áp dụng vào thực hành theo năng lực của từng cá nhân,dưới sự tổ chức hướng dẫn hợp lý của giáo viên và sự trợ giúp đúng mức đồ dùng học tập, làm cho học sinh biết cách tư duy sáng tạo, cảm thấy hứng thú, tự tin làm nền tảng vững chắc cho các lớp học kế tiếp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh lớp 2
ong bảng cộng, rút ra nhận xét như sau: + Số hạng thứ nhất của các phép tính đều là 9. + Số hạng thứ hai của các phép tính theo thứ tự tăng dần (từ 2 đến 9). + Tổng của các phép tính theo thứ tự tăng dần (từ 11 đến 18). Với cách này học sinh sẽ khắc sâu kiến thức hơn, tránh lạm dụng đồ dùng trực quan, đây cũng chỉ là bước đầu học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức, giáo viên cần giúp học sinh nhận ra sự cần thiết của học Toán: học không phải chỉ để biết mà học còn để vận dụng làm bài tập và áp dụng những điều đã học vào thực tế cuộc sống. Chẳng hạn: Tính nhẩm: 9+3 = ; 9+6 = ; 9+8 = ; 9+7 = ; 9+4 = 3+9 = ; 6+9 = ; 8+9 = ; 7+9 = ; 4+9 = Trên cơ sở biết cách đếm tiếp, biết cách tính nhẩm tách số, và học thuộc bảng cộng thì học sinh có thể tự tìm ra kết quả ở mỗi phép tính. Tôi yêu cầu HS quan sát 2 phép tính: 9 + 3 = 12 3 + 9 = 12 Tôi đặt câu hỏi để các em phát hiện ra: Vị trí các số hạng thay đổi của phép cộng như sau: + Em hãy nhận xét về vị trí của các số hạng ở 2 phép tính? (Vị trí các số hạng thay đổi cho nhau) + Em hãy nhận xét về tổng ở 2 phép tính? (Tổng giống nhau, đều bằng 12) Từ đó rút ra được kết luận: khi đổi chỗ các số hạng trong một tổng thì tổng không thay đổi. Nhằm giúp các em có thể nhận ra việc học Toán là rất cần thiết, bổ ích và thú vị tôi cho học sinh vận dụng phép tính 9 + 5 để nêu một số bài toán áp dụng vào thực tế cuộc sống hằng ngày của các em. Chẳng hạn: + Em có 9 viên kẹo, anh cho em thêm 5 viên kẹo nữa. Hỏi em có tất cả bao nhiêu viên kẹo? + Mẹ hái được 9 quả cam, em hái được 5 quả cam. Hỏi cả mẹ và em hái tất cả bao nhiêu quả cam? Như vậy, để học sinh có thể tự phát huy tính tích cực, chủ động lĩnh hội kiến thức, cảm thấy việc học Toán rất hứng thú, hấp dẫn và bổ ích vì nó vận dụng được vào cuộc sống hằng ngày thì đòi hỏi người giáo viên phải sử dụng nhiều hình thức, phương pháp dạy học khác nhau để các em yêu thích học môn Toán hơn. Giải pháp 4: Tích cực sử dụng đồ dùng dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học. Như chúng ta đã biết đồ dùng trực quan như: tranh ảnh, đồ vật, vật thật đều có tác dụng tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học. Đồ dùng trực quan giúp cho việc dạy học cụ thể hơn, vì vậy tăng khả năng tiếp thu kiến thức về các sự vật, hiện tượng.Ở lớp 2, phần lớn các em rất tò mò, rất hứng thú với đồ dùng trực quan. Chính vì vậy tôi đã sử dụng đồ dùng trực quan vào bài dạy để thu hút học sinh. Toán học là một môn khoa học mang tính trừu tượng cao. Để học sinh hiểu bài một cách sâu sắc, dễ tiếp thu kiến thức thì giáo viên cần chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học. Đồ dùng dạy học là phương tiện vô cùng quan trọng và cần thiết nhằm giúp cho học sinh nắm bắt kiến thức một cách tự nhiên, nhẹ nhàng. Từ chỗ tận mắt các em nhìn, tự tay các em thực hành dẫn đến các em chiếm lĩnh kiến thức một cách tự giác, hứng thú, không bị áp đặt, giúp các em khắc sâu kiến thức hơn đồng thời giúp các em thấy được kiến thức toán học có mối quan hệ chặt chẽ với thực tiễn, tạo cho học sinh ý thức vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn cuộc sống. Ví dụ: Đối với bài 29: Ngày - giờ, giờ - phút Với bài học này, giáo viên cần chuẩn bị một số loại đồng hồ như: đồng hồ treo tường, đồng hồ đeo tay, đồng hồ điện tử, đồng hồ báo thức để cho học sinh quan sát trực tiếp và nhận biết các loại đồng hồ cũng như công dụng của nó ngoài đời sống. Về học sinh: Mỗi em đều có một đồng hồ bằng nhựa có kim giờ, kim phút quay được để các em thực hành quay kim đồng hồ. Tôi giới thiệu: Đồng hồ thông thường có 3 cây kim: + Kim giờ (Kim ngắn nhất, dùng chỉ giờ) + Kim phút (Dài hơn kim giờ, dùng chỉ phút) + Kim giây (Kim chạy nhanh nhất để chỉ giây) Qua bài học, học sinh sẽ biết được: 1 ngày có 24 giờ, 1 giờ có 60 phút và 1 phút có 60 giây. Sau đó, giáo viên sẽ cho học sinh thực hành quay một số giờ cụ thể về thời gian như thời gian các em thức dậy, thời gian các em ăn sáng, thời gian các em đi học, thời gian ngủ buổi tốiTừ cách dạy học vận dụng và liên hệ thực tế như vậy, các em sẽ biết xem giờ, biết sử dụng thời gian một cách khoa học, hợp lí để đạt hiệu quả trong học tập và nghỉ ngơi. Ngoài ra, tôi còn tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học. Việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Những bài giảng được cung cấp bằng nhiều kênh hình, kênh chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ hiểu, dễ tiếp thu hơn. Internet là một môi trường tương tác đa phương tiện, một thư viện thông tin khổng lồ và là một nguồn tư liệu dạy học vô cùng phong phú. Việc khai thác và sử dụng hiệu quả Internet trong hoạt động giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng dạy học là rất quan trọng. Sách mềm cũng là sản phẩm ứng dụng công nghệ thông tin giúp giáo viên có thêm công cụ hỗ trợ giảng dạy và học sinh có thêm tư liệu để ôn luyện bên cạnh việc dạy học bám sát vào nội dung của sách giáo khoa. Giải pháp 5: Vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức dạy học Trong mỗi tiết học, tôi đã tổ chức các phương pháp, hình thức học tập khác nhau để gây hứng thú, thu hút học sinh tham gia tích cực. * Về phương pháp: Hướng dẫn học sinh tự giác tổ chức các hoạt động học tập của mình để tìm ra kiến thức mới. Học sinh biết hợp tác và tương tác với các thành viên trong nhóm, học sinh chủ động khám phá và tìm ra tri thức. Học sinh tự đánh giá bản thân mình và được bạn bè đánh giá thông qua hoạt động nhóm. Đổi mới phương pháp dạy học để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em yêu thích môn học, tạo ra nhiều cơ hội học tập và thể hiện bản thân. * Về hình thức: Tôi thay đổi một số hình thức lên lớp mà trong đó giáo viên mang tính chủ đạo sang các hoạt động học sinh tự tổ chức các hoạt động học tập của cá nhân, nhóm, lớp... Tôi đã kết hợp các hình thức tổ chức dạy học tích cực như: dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân, hoạt động cặp đôi, hoạt động chung cả lớp, thảo luận, đóng vai, trò chơi để tạo cơ hội cho các em được giao tiếp với nhiều học sinh trong lớp. Ví dụ: Bài Luyện tập chung Khi nhìn vào nội dung bài học này, từ bài 1 đến bài 4 chỉ thấy hàng loạt các con số, nếu giáo viên yêu cầu học sinh tự thực hiện tính rồi giáo viên sửa bài chỉ bằng hình thức vấn đáp sẽ dễ gây sự mệt mỏi, chán nản cho học sinh. Nhưng khi giáo viên biết kết hợp nhiều hình thức học tập khác nhau (cá nhân, nhóm đôi, cả lớp), nhiều phương pháp học tập khác nhau (Giảng giải, vấn đáp, thuyết trình, trò chơi) thì tiết học này trở nên nhẹ nhàng, hấp dẫn, thu hút sự chú ý, tham gia tích cực của học sinh và đạt hiệu quả cao. Cụ thể như sau: Bài 1: Tính nhẩm. (Hình thức: cả lớp, phương pháp: trò chơi ) 7 + 7 = 12 – 8 = 7 + 6 = 2 + 9 = 15 – 8 = 13 – 7 = 8 + 4 = 18 – 9 = 13 – 6 = Ở bài tập này, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “truyền điện” để cả lớp cùng nhau tham gia sửa bài. Bài 2: Đặt tính rồi tính (Hình thức: cá nhân, phương pháp: giải quyết vấn đề) 51 + 18 = 4 + 62 = 78 – 38 = 95 – 70 = Ở bài tập này, tôi cho học sinh làm bảng con, các em tự thực hiện tính, tôi sẽ quan sát và nhận xét. ? ? Bài 3: Số? (Hình thức: nhóm, phương pháp: trò chơi ) ? 9 + 7 = 8 + 3 = 6 + 7 = ? ? ? 6 16 - 7 = 11 – 8 13 – = = 7 ? ? 16 - 9 = 11 – = 3 13 – = ? Ở bài tập này, tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi “tiếp sức điền số”, thi đua giữa ba đội, các em còn lại quan sát và nhận xét. Lúc đầu trên xe có 12 bạn, sau đó 3 bạn xuống xe. Hỏi trên xe còn lại bao nhiêu bạn? Bài 4: Giải toán. (Hình thức: cả lớp, phương pháp: vấn đáp, giải quyết vấn đề) ? ? ? ? ? Trả lời: Trên xe còn lại ?... bạn. Sau khi tôi gọi 2 – 3 học sinh đọc đề bài toán, tôi hỏi để học sinh trả lời: + Bài toán cho biết gì? (Lúc đầu trên xe có 12 bạn, sau đó 3 bạn xuống xe.) + Bài toán hỏi gì? (Hỏi trên xe còn lại bao nhiêu bạn ?) + Để biết trên xe còn lại bao nhiêu bạn, ta thực hiện phép tính gì? (Thực hiện phép trừ: 12 – 3) Tôi yêu cầu học sinh giải bài toán vào vở, gọi 2 học sinh thi đua trình bày bài giải trên bảng lớp, các em còn lại quan sát và nhận xét. Như vậy, khi kết hợp nhiều hình thức và phương pháp dạy học khác nhau vào giảng dạy sẽ giúp học sinh ham thích học toán vì các em được vừa học vừa chơi, không khí học tập rất thoải mái, các em dễ tiếp thu bài hơn, tích cực hoạt động và đạt kết quả học tập tốt hơn. Giải pháp 6: Khen thưởng, động viên kịp thời sự tiến bộ của học sinh: Đây cũng là một biện pháp giúp cho học sinh có được sự phấn khởi,tự tin, tiến bộ nhanh trong học tập nên giáo viên cần tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.Thông qua cử chỉ, lời nói, ánh mắt, nụ cười giáo viên cần tạo sự gần gũi, cảm giác an toàn cho học sinh để các em có thể bày tỏ những tâm tư, tình cảm, khó khăn trong học tập, trong cuộc sống của bản thân mình.Giáo viên cần luôn tạo cholớp học bầu không khí thoải mái, nhẹ nhàng, không đánh mắng hoặc dùng những lời thiếu tôn trọng với các em, đừng để cho học sinh cảm thấy sợ giáo viên mà hãy làm cho học sinh thương yêu, tin tưởng và tôn trọng mình. Bên cạnh đó, giáo viên phải là người đem lại cho các em những phản hồi tích cực, giáo viên nên thay chê bai bằng khen ngợi, tìm những việc các em đã hoàn thành dù là những việc nhỏ để khen ngợi các em. Nếu các em trả lời đúng câu hỏi đơn giản, giải đúng bài tập được cô giáo khen ngợi trước tập thể lớp sẽ tạo cho các em sự tự tin và ngày càng mạnh dạn đóng góp xây dựng bài, hứng thú hơn trong học tập.Người giáo viên cần hết sức nhẹ nhàng, ân cần chỉ bảo giúp đỡ, yêu thương để tạo cho các em niềm tin là hứng thú học tập. Việc đánh giá của giáo viêncần dựa theo sự tiến bộ của học sinh theo từng giai đoạn và từng cá thể học sinh để đánh giá đúng thực chất năng lực của các em. Như vậy chúng ta thấy rằng: Giáo viên thân thiện thì học sinh sẽ tích cực. * Tính mới, tính sáng tạo của giải pháp: Đặc trưng trong các giải pháp mới tôi đưa ra đó là học sinh được luyện tập nhiều hơn theo năng lực. Học sinh được trải nghiệm nhiều hơn để rút ra kinh nghiệm cho bản thân để vận dụng vào nhận biết và giải các bài toán. Giáo viên sử dụng linh hoạt nhiều phương pháp dạy học mới phát huy tính tự giác, tích cực của học sinh. Giáo viên chỉ ra được những lỗi sai cơ bản để học sinh nhận ra và có cách làm đúng đắn. Tạo cho các em có thói quen phân tích đề, biết tự kiểm tra phát hiện sai lầm trong giải toán. Học sinh được học tập theo hướng phát triển năng lực. Các em không chỉ lắng nghe kiến thức từ thầy mà còn phải học từ bạn và phải tự mình tìm tòi và phát hiện kiến thức. HIỆU QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. Hiệu quả trong thực tế giảng dạy: * Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực sử dụng các giải pháp, tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh, kết quả thu được như sau; Kết quả thu được như sau: Tổng số bài Điểm 9 - 10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm dưới 5 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ 30 14 46,7 14 46,7 2 6,6 0 0 Trong giờ dạy học môn toán các em làm bài tự tin, tích cực hơn. Các em say mê hào hứng trong học môn toán. Học sinh dễ tiếp thu và tiếp cận nhanh với các dữ liệu của bài toán, xác định được yêu cầu bài và dễ dàng định hướng được các bước giải của bài toán. Đặc biệt là các giải pháp đã giúp học sinh nhận dạng bài tập một cách chính xác và làm bài tốt, không còn nhầm lẫn các dạng toán. + Học sinh hiểu bài, tích cực, tự giác trong giờ học, tự tin thảo luận trao đổi với các bạn trong nhóm và thầy cô. Chính vì vậy các bài kiểm tra định kì, hay giao lưu học sinh giải bài tập chính xác và có các cách làm khác nhau đạt kết quả khá tốt. Lợi ích mà sáng kiến mang lại không tính được cụ thể số tiền mà là chất lượng dạy học môn Toán lớp 2 được nâng lên rõ rệt. Đã khơi gợi, tạo cho học sinh say mê hào hứng với môn học. Việc hướng dẫn, giúp đỡ các em hiểu, nhận biết và giải quyết được các dạng toán ở lớp 2 trong chương trình GDPT 2018, các em sẽ vận dụng tốt vào làm các bài tập cơ bản trong chương trình học. Đồng thời giúp các em hiểu đúng, vận dụng linh hoạt giải quyết các vấn đề trong thực tế có liên quan đến tỉ số phần trăm như tính tiền vốn, tiền lãi, tính năng suất lao động, sản lượng, ... Hiệu quả về nhận thức xã hội: Lôi cuốn được học sinh yêu thích môn học, tạo được niềm vui sảng khoái ở các em trong tiết học. Rèn luyện cho học sinh nhiều kỹ năng, năng lực cần thiết: tự học, tự nghiên cứu, sáng tạo, ra quyết định đúng và kịp thời. Tạo được thế hệ học sinh có năng lực tự học, giải vấn đề, sáng tạo, biết hợp tác, năng lực sử dụng ngôn ngữ.. là thành công lớn của giáo dục. Học sinh phát triển toàn diện hơn, các em có khả nănggiải quyết các vấn đề trong thực tế, kĩ năng sống của các em phát triển. Góp phần vào việc giáo dục toàn diện nhân cách cho học sinh. Tạo được niềm tin của cha mẹ học sinh và cộng đồng đối với đổi mới phương pháp dạy học. ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG: Điều kiện áp dụng sáng kiến. Đối với giáo viên: Cần nắm chắc nội dung chương trình môn Toán lớp 2 để lựa chọn phương pháp hướng dẫn học sinh sao cho dễ hiểu, dễ nhớ. Xác định được vai trò, việc làm cụ thể trong từng bài dạy để tránh áp đặt học sinh; hơn nữa phải phát huy được tính tích cực của học sinh. Đối với học sinh: Học sinh tích cực tham gia các hoạt động học tập. Phương tiện, đồ dùng: Bảng phụ, tranh, ảnh, ti vi, máy tính.... Khả năng áp dụng sáng kiến. Khi thực hiện, tôi đã tiến hành tìm hiểu, xây dựng mục tiêu, kế hoạch, lựa chọn các biện pháp phù hợp, dạy cho học sinh một số kĩ năng. Giúp các em học tập tốt hơn môn Toán, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở Tiểu học. Các giải pháp mà tôi đã vận dụng rất dễ thực hiện, áp dụng được cho tất cả thầy cô trong khối, trường và đồng nghiệp hoàn thành tốt nhiệm vụ giảng dạy, nâng cao chất lượng học tập của học sinh, đóng góp cho sự nghiệp trồng người của đất nước. Giải pháp này còn có thể áp dụng được vào dạy môn Toán ở các khối lớp từ khối 1 đến khối 5 và áp dụng vào dạy học các môn học khác như Tiếng Việt, Tự nhiên và Xã hội, Đạo đức, Mĩ thuật, Âm nhạc, Khoa học Thông qua đó, giáo viên có thể lồng ghép các kĩ năng sống, cách ứng xử, giao tiếp hằng ngày vào bài học để các em học hỏi, áp dụng vào đời sống. Sáng kiến này mang lại những giải pháp cụ thể, thiết thực, dễ dàng áp dụng trong giảng dạy,dễ tuyên truyền và phổ biến cho giáo viên ở cùng trường và các đồng nghiệp khác trong ngành giáo dục. Tôi nghĩ rằng nếu đề tài này được nhân rộng, nó sẽ mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy, phát huy tính tích cực học tập của học sinh, nâng cao chất lượng dạy học môn Toán trong trường Tiểu học. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong quá trình nghiên cứu và thực hiện tại trường chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp chân tình của các thành viên trong Hội đồng thẩm định để đề tài này được hoàn thiện hơn. Tôi xin cam kết biện pháp này lần đầu được dùng để đăng ký tham dự Hội thi và chưa được dùng để xét duyệt thành tích khen thưởng cá nhân tôi trước đây. Tôi xin chân thành cảm ơn XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO NHÀ TRƯỜNG Tam Điệp, ngày 02 tháng 10 năm 2022 NGƯỜI NỘP ĐƠN Bùi Thị Phượng ĐÁNH GIÁ CỦA HĐSK PHÒNG GIÁO DỤC MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG CỦA CÔ TRÒ LỚP 2A TRƯỜNG TIỂU HỌC NGUYỄN TRÃI
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_d.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy – học môn Toán cho học sinh lớp 2.pdf

