Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 2

Giáodục tiểu học ở nước ta đang thực hiện đổi mới đồng bộ nhằm đào tạo những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển đất nước và hội nhập vào tiến bộ chung của thế giới.

Hiệnnay giáo dục tiểu học đang thực hiện giảng dạy theo chương trình tiểu học học mới. Mỗi môn học, bài học đều mới mẻ về nội dung cũng như phương pháp hình thức tổ chức dạy học. Để các em nắm được nội dung kiến thức thì mỗi giáo viên phải có phương pháp truyền thụ phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của họcsinh tiểu học vì tư duy của các em còn mang tính cụ thể hình tượng.

Trong các môn học ở tiểu học, cùng với môn Tiếng Việt, môn Toán có vị trí rất quan trọng, mở đầu cho học sinh đi vào thế giới diệu kỳ của toán học. Dù sau này lớn lên các em có trở thành kỹ sư, nhà bác học hay những người trực tiếp lao động trên mọi lĩnh vực sản xuất thì nhứng tri thức đầu đời, những con số, những phép tính đơn giản vẫn vô cùng cần thiết và đi theo các em suốt cả cuộc đời.

docx 22 trang Hương Thủy 18/10/2025 140
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán lớp 2
iện 4 tổ lên đo) và nêu kết quả kiểm tra được. Chỉ bằng những việc sử dụng đồ dùng (thước kẻ) tưởng rằng đơn giản như vậy nhưng đem lại hiệu quả rất lớn. Sau khi kiểm tra, học sinh dễ dàng phân biệt được hình chữ nhật khác hình tứ giác ở chỗ:
Hình chữ nhật có hai cạnh dài bằng nhau, hai cạnh ngắn bằng nhau.
Hình tứ giác các cạnh không bằng nhau.
Hình chữ nhật cũng được gọi là hình tứ giác đặc biệt.
Khi luyện tập.
Để phát huy tác dụng vốn có từ đồ dùng của học sinh, đến phần luyện tập tôi yêu cầu học sinh sử dụng đồ dùng thước có vạch xăng - ti - met vào làm bài tập số 1, số 3.
Bài 1: Yêu cầu nối các điểm để được hình chữ nhật, hình tứ giác.
a)	b)
A●	● B	M●	●N
D
●	●	● P
E	D	●
Q
Bài 3: Yêu cầu học sinh kẻ thêm một đoạn thẳng trong hình để được:
a) Hình chữ nhật	b) Ba hình tứ giác
Tôi hướng dẫn học sinh: Nhớ lại đặc điểm của các hình, suy nghĩ và tìm cách vẽ (phải sử dụng thước kẻ để vẽ, tuyệt đối không vẽ bằng tay).
Với những câu hỏi có nội dung phù hợp với yêu cầu của bài, kết hợp với đồ dùng dạy học hợp lý, đã giúp các em nắm vững kiến thức và linh hoạt trong suy nghĩ. Từ đó học sinh “Giải quyết vấn đề” toán học một cách tự tin và vững chắc. (100% học sinh lớp tôi hiểu bài và vận dụng thực hành tốt).
Sử dụng đồ dùng dạy học dưới hình thức hoạt động nhóm trong giờ học
Trong giờ học, nếu các em được hoạt động theo nhóm, được nhìn tận mắt, sờ tận tay rồi nhận xét từ đó dẫn tới nội dung kiến thức sẽ giúp các em nắm bài chắc hơn, nhớ bài lâu hơn.
Hoạt động nhóm giúp các em tự tìm ra kiến thức toán học thông qua đồ dùng dạy học. Sử dụng hình thức này, giáo viên còn tạo điều kiện cho các em giúp đỡ nhau trong học tập từ đó kết quả học tập được nâng cao.
Ví dụ: Khi dạy bài: Hình chữ nhật – Hình tứ giác.
Sau khi học sinh đã hiểu được các đặc điểm của hình chữ nhật – hình tứ giác, để giúp các em nhớ kiến thức đến phần luyện tập, tôi tổ chức cho các em hoạt động nhóm 4.
- Đồ dùng: 8 hình tam giác bằng nhau.
Giáo viên phát cho mỗi nhóm 1 bộ (8 hình tam giác).
Nhiệm vụ của các nhóm là ghép các hình tam giác thành một hình tứ giác và 1 hình chữ nhật. Học sinh lớp 2 ưa thích hoạt động, các em rất say sưa làm việc, giúp đỡ nhau trong nhóm. Chỉ trong thời gian ngắn các nhóm đã đưa ra kết quả ghép được khác nhau nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu như:
1	2
3	4
Ở tất cả các bài tập ghép hình tôi đều sử dụng đồ dùng như vậy, học sinh lớp tôi nhận dạng và nhớ được đặc điểm của hình rất tốt, không nhầm lẫn như: hình chữ nhật, hình vuông, hình tứ giác, hình tam giác,
Với hình thức học nhóm (thông qua đồ dùng học tập) như vậy, hoạt động của các em diễn ra rât sôi nổi, sinh động, gây hứng thú học tập cho các em, giúp các em tự chủ trong quá trình lĩnh hội tri thức, có thể tự mình vận dụng kiến thức đã học một cách thành thạo trong cuộc sống (nhận biết các đồ vật có hình chữ nhật – hình tứ giác).
Sử dụng đồ dùng dạy học trong phần trò chơi ở cuối tiết học
Trò chơi toán học và đồ dùng dạy học sinh động sẽ giúp cho học sinh có khí thế học tập, sôi nổi thi đua, phát huy ý thức học tập cũng như năng lực của bản thân, qua đó tạo cho các em môi trường học tập thoải mái giúp các em hạm thích học toán, giảm bớt căng thẳng trong giờ học mà lại có tác dụng khắc sâu kiến thức cho các em.
Ví dụ: Khi dạy bài: Bảng nhân 4
Đồ dùng:
16 bông hoa bằng giấy trên đó có ghi các con số hoặc phép tính, phân đều 4 nhóm, mỗi nhóm một màu khác nhau.
Phấn màu: 4 màu giống màu bông hoa của 4 nhóm (hoa màu đỏ thì phấn màu đỏ, hoa màu xanh thì phấn màu xanh,).
Trò chơi: Ai nhanh hơn – tiếp sức giải toán.
Cách tiến hành: Thời gian vào phần củng cố bài.
Giáo viên dán sẵn các bông hoa lên bảng không theo thứ tự của nhóm, úp phần ghi số và phép tính vào trong, phần màu ra ngoài.
+ Giáo viên nêu cách chơi và cho học sinh chơi.
+ 4 nhóm, mỗi nhóm 4 bạn tham gia chơi.
Lần lượt từng em của mỗi nhóm, nối tiếp lên tìm tấm màu của nhóm mình gỡ ra đọc và dùng phấn mầu ghi lại phép tính hoặc kết quả cần tìm tương ứng.
Chẳng hạn: Nếu học sinh gỡ bông hoa có ghi 4 x 8 = ? thì học sinh đó phải ghi lại phép tính và kết quả lên bảng 4 x 8 = 32.
Nếu học sinh gỡ bông hoa có ghi số 16 thì học sinh đó phải ghi phép tính tương ứng với số 16, 16 = 4 x 4.
Cứ như vậy đến hết, sau đó tôi yêu cầu cả lớp tính điểm cho từng nhóm (mỗi phép tính đúng được 10 điểm) rồi so sánh điểm của các nhóm với nhau (theo mức điểm, nhanh nhất, đúng nhất và đẹp nhất,). Số điểm đạt được của mỗi nhóm được ghi vào bảng hoa điểm tốt của lớp.
Thông qua đồ dùng dạy học kết hợp hình thức trò chơi trong tiết học toán đã phát huy tính tích cực chủ động của học sinh, giúp các em khắc sâu kiến thức, say sưa học toán, yêu thích môn toán. Thường xuyên sử dụng đồ dùng dạy học như vậy học sinh lớp tôi tiếp thu và vận dụng kiến thức toán học rất tốt.
Tránh lạm dụng khi sử dụng đồ dùng dạy học trong giờ học toán.
Thực tế giảng dạy tôi thấy, đồ dùng dạy học đã góp phần không nhỏ trong thành công tiết dạy, giáo viên cần sử dụng đồ dùng linh hoạt trong giờ học, tránh lạm dụng nếu không sẽ làm hạn chế tác dụng của đồ dùng, giảm khả năng suy nghĩ của học sinh dẫn đến giờ học kém hiệu quả.
* Ví dụ: Dạy bài : Luyện tập.
Bài 5 (117) – Sách Toán 2.
Có 15 bông hoa cắm vào các lọ, mỗi lọ 3 bông hoa. Hỏi cắm được mấy lọ hoa?
- Để giúp học sinh dễ dàng giải được bài toán. Giáo viên sử dụng đồ dùng là 15 bông hoa bằng nhựa để minh họa. Sau khi học sinh đã hiểu được bản chất của vấn đề giáo viên cần cất đồ dùng đi. Như vậy, học sinh phải động não suy nghĩ để tìm cách giải, làm thế nào tìm được 5 lọ hoa? (15 : 3 = 5).
Với cách đưa đồ dùng như vậy, học sinh lớp tôi, khi giải toán có lời văn dạng toán này, các em làm bài rất tốt, hiểu sâu. (Ở những bài sau không cần đưa đồ dùng mà các em vẫn làm được, không nhầm dạng khác).
Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại (máy chiếu, băng hình, máy tính) có hiệu quả.
Đồ dùng dạy học đặc biệt là những thiết bị dạy học hiện đại là phương tiện hữu hiệu để học sinh đón nhận kiến thức một cách nhanh chóng, là cầu nối giữa lí thuyết với thực tế. Sử dụng trang thiết bị dạy học hiện đại không chỉ để minh họa cho nội dung bài mà còn là phương tiện để tổ chức các hoạt động học tập dưới nhiều hình thức.
Ví dụ 1: Dạy bài: Giờ, phút (Bài 2 – trang 151)
Với bài tập này học sinh phải xem tranh, hiểu được các sự việc và hoạt động được mô tả qua tranh vẽ, lựa chọn giờ thích hợp cho từng bức tranh. Tôi sử dụng máy chiếu, chiếu 4 bức tranh và 4 chiếc đồng hồ lên. Học sinh dễ quan sát đối chiếu với mặt đồng hồ, từ đó lựa chọn tranh vẽ mặt đồng hồ thích hợp với hoạt động và trả lời câu hỏi của bài toán “Tranh vẽ Mai ngủ dậy lúc 6 giờ thì ứng với đồng hồ C”.
Để giúp học sinh có biểu tượng về khoảng cách đo bằng ki lô met tôi sử dụng máy tính, xây dựng các slide về bản đồ Việt Nam. Hướng dẫn học sinh đọc bản đồ và nhận biết thông tin trên bản đồ (đọc đến đâu dùng đèn chiếu đến đó).
Ví dụ 2: Dạy bài ki-lô-mét (Bài 2 – trang 151) Quãng đường từ Hà Nội – Vinh dài 308 km Quãng đường từ Hà Nội – Lạng Sơn dài 169 km
Học sinh nhận biết độ dài quãng đường Hà Nội – Vinh (308 km) và Hà Nội – Lạng Sơn (169 km) trên bản đồ. Sau đó học sinh chuyển dịch quan hệ nói thành ngôn ngữ thực tế để trả lời được Vinh xa Hà Nội hơn.
Như vậy, với cách sử dụng thiết bị dạy học hiện đại giáo viên đã đưa học sinh vào tình huống thực tế, giúp học sinh tư duy để giải bài toán có liên quan đến tình huống thực tế đó. Các em dễ dàng gắn kiến thức được học vào thực tế cuộc sống, giờ học sôi nổi và lôi cuốn học sinh.
Làm thêm đồ dùng dạy học
Để hỗ trợ cho những đồ dùng chưa có và để có đủ đồ dùng học tập cho phù hợp với mọi đối tượng học sinh, ngoài đồ dùng đã được nhà trường trang bị, tôi đã làm thêm một số đồ dùng dạy học khác như:
Mô hình quả, ngôi sao bằng bìa để dạy dạng toán nhiều hơn, ít hơn
Các hình chữ nhật, hình vuông, hình tròn bằng nhựa to hơn các hình trong bộ đồ dùng để học sinh dễ quan sát.
Những bông hoa nhựa để học về phép chia (chia theo nhóm, chia thành các phần bằng nhau).
Tranh để làm các bài tập về nhận biết 1 , 1 , 1 , 1
2	3	4	5
Mô hình đường gấp khúc, đường gấp khúc khép kín để học về đường gấp khúc, độ dài đường gấp khúc
Các phiếu học tập, các sơ đồ thực hiện dãy tính (không nhớ) dạng:
530
+ 113	- 20	- 111	+ 200
(Các ô trống để cố định, các số bằng giấy đề can dán để dễ thay đổi).
10
+6
+6
+6
+6
Tránh sự nhàm chán, tôi còn dùng sơ đồ lượn cong để thu hút học sinh vào bài như:
Tuy những đồ dùng đó rất đơn giản nhưng góp phần rất lớn vào quá trình giảng dạy toán cho các em học sinh lớp 2.
* Ví dụ 1: Dạy bài: Bài toán ít hơn
Đồ dùng: 12 quả cam bằng giấy hoặc vật thật.
Ví dụ 2: Dạy bài: Luyện tập.
Bài 1 – Trang 31 – Toán 2.
Để học sinh hiểu được khái niệm ít hơn, nhiều hơn, bằng nhau.
Đồ dùng: 1 hình vuông, 1 hình tròn, 14 ngôi sao bằng giấy.
Nói chung, trong quá trình giảng dạy, tùy theo mục đích yêu cầu đạt được của từng bài mà giáo viên làm thêm đồ dùng cho phù hợp. Trên đây chỉ là số ví dụ nhỏ trong quá trình làm thêm đồ dùng của tôi.
IV – KẾT QUẢ:
Trong suốt thời gian qua, tôi đã sử dụng linh hoạt và triệt để đồ dùng trực quan đối với từng tiết học toán. Nhờ có đồ dùng trực quan, tôi đã thu được những thành công đáng kể trong giảng dạy môn toán ở lớp 2. Nhờ đó học sinh lớp tôi có không khí học tập sôi nổi có niềm hứng thú say mê học toán. Nhiều em có kỹ năng giải toán ngày càng tinh tế, linh hoạt như em Trần Hải Minh, Phạm Thành Phong, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Tiến Minh, Đặc biệt, em Nguyễn Tùng Dương đầu năm em học toán rất yếu đến nay đã tiến bộ rõ rệt.
Kết quả cụ thể về môn Toán của lớp tôi qua từng thời gian như sau:
Loại Thời gian

Sĩ số

Số bài
Giỏi
Khá
TB
Yếu

SL

%

SL

%

SL

%

SL

%
Đầu năm
40
40
13
32,5
12
30
13
32,5
2
5
Giữa học kỳ I
40
40
17
42,5
13
32,5
9
22,5
1
2,5
Cuối học kỳ I
40
40
22
55
12
30
6
15
0
0
Giữa học kỳ II
40
40
30
75
6
15
4
10
0
0
Bên cạnh kết quả chung của lớp, trong các đợt hội học do nhà trường tổ chức, học sinh lớp tôi thạm gia đều đạt giải cao nhất khối.
Với sự rèn luyện, cố gắng trong học tập của thầy và trò chúng tôi, lớp tôi không còn học sinh tiếp thu chậm về toán. Các em có vốn kiến thức chắc chắn để tiếp tục học lên lớp 3.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của ban giám hiệu nhà trường, sự giúp đỡ của các bạn đồng nghiệp, tôi đã nghiên cứu, áp dụng đề tài này tại lớp 2A – Trường Tiểu học Nam Hồng trong năm học 2012 – 2013 và đạt được kết quả tốt.
Với việc sử dụng đồ dùng dạy học trong môn toán lớp 2, khi sinh hoạt chuyên môn, tôi đã trao đổi với các đồng chí giáo viên trong khối. Các đồng chí đã áp dụng trong quá trình giảng dạy và đạt kết quả rất đáng kể. Giữa học kỳ 2 bài kiểm tra môn toán của khối tôi đạt 99% trên trung bình.
PHẦN III/ KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết luận
Môn toán là một môn khó, đòi hỏi học sinh phải tập trung suy nghĩ độc lập, vì thế học sinh tiểu học nói chung, học sinh lớp 2 nói riêng hay chán học môn toán khi gặp phải những bài toán khó. Do đó, giúp học sinh yêu thích học toán là một việc làm không đơn giản. Chính vì vậy, sử dụng đồ dùng trực quan trong giờ học toán là một loại hình hoạt động rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học. Thông qua đồ dùng, giáo viên gây hứng thú học tập, tác động mạnh mẽ tới nhận thức và hình thành kiến thức cho học sinh. Để kết quả học tập của các em được nâng cao, giáo viên cần nghiên cứu, sử dụng đồ dùng dạy học phù hợp với từng bài dạy, chắc chắn học sinh sẽ yêu thích môn học này.
Giáo viên phải luôn quan tâm đến lớp, nắm bắt được tình hình học tập của từng em.
Cần nghiên cứ kỹ nội dung, chương trình, bám vào mục tiêu, yêu cầu của từng bài để lựa chọn đồ dùng dạy học cho phù hợp.
Ngay từ đầu năm học, có kế hoạch tìm hiểu đồ dùng của nhà trường (đã có, chưa có) và làm thêm một số đồ dùng cần thiết.
Đồ dùng đưa ra phải đẹp, không rườm rà, lòe loẹt và đặc biệt không nên quá lạm dụng đồ dùng.
Đồ dùng đưa ra phải đúng lúc, thu hút sự chú ý của học sinh, kết hợp các phương pháp và hình thức học tập khác nhau. Qua hình ảnh quan sát, học sinh khi thác, vận dụng kiến thức và hình thành kiến thức.
Giáo viên phải tận dụng triệt để phương pháp trực quan, tạo cho học sinh có phong cách, thái độ, động cơ học tập gắn lý thuyệt với thực hành. Giúp học sinh học tốt môn toán lớp 2 là tiền đề để các em học tốt môn toán ở các lớp trên.
Sử dụng đồ dùng dạy học trong quá trình giảng dạy cũng là một trong những yếu tố để đổi mới phương pháp dạy – học.
Đồ dùng dạy học được giáo viên sử dụng thường xuyên, hợp lý, linh hoạt sẽ giúp cho học sinh khai thác các nội dung, kiến thức tiềm ẩn thông qua đồ dùng, tự nhận ra kiến thức cơ bản, biết cách phân tích bài toán để từ đó học sinh tự tin hơn vào khả năng của mình trong học tập.
Hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng trong giờ học toán còn rèn luyện cho học sinh kỹ năng quan sát, phân tích, tổng hợp không chỉ trong môn toán mà còn trong tất cả các môn học khác.
Sử dụng đồ dùng có hiệu quả trong quá trình giảng dạy môn toán lớp 2 cũng là góp phần đổi mới phương pháp dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm giáo dục”,
nâng cao chất lượng dạy – học môn toán ở tiểu học nói chung và toán lớp 2 nói riêng. Tôi mạnh dạn trình bày rất mong được sự góp ý của các cấp lãnh đạo và đồng nghiệp để đề tài đạt kết quả tốt hơn.
Khuyến nghị:
Để khắc phục một số vướng mắc trong dạy học toán và nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học hiện nay, tôi có khuyến nghị sau:
Tiếp tục đầu tư thêm đồ dùng, tranh ảnh phục vụ cho dạy toán ở tiểu học.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Nam Hồng, ngày 12 tháng 4 năm 2013 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Công Thị Kim Thúy

DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đổi mới nội dung và phương pháp dạy học ở tiểu học
Một số vấn đề về nội dung và phương pháp dạy học toán ở tiểu học
Bồi dưỡng thường xuyên
Toán 2 – Nhà xuất bản giáo dục.
Sách giáo viên Toán 2 – Nhà xuất bản giáo dục.
Thiết kế bài giảng Toán 2 – Nhà xuất bản Hà Nội.
Tạp chí “Chuyên đề giáo dục tiểu học” – Nhiều tác giả.
Hỏi đáp về Dạy – Học Toán 2 – Nhà xuất bản giáo dục.
MỤC LỤC
PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
2
I – Lý do chọn đề tài .
2
II – Mục đích nghiên cứu .
3
III – Phương pháp nghiên cứu ..
3
PHẦN II: NỘI DUNG...
4
I – Cơ sở lý luận ...
4
II – Cơ sở thực tiễn ...
4
III – Biện pháp thực hiện ..
5
1. Nghiên cứu chương trình giảng dạy – Chuẩn bị đồ dùng dạy học
5
2. Lựa chọn thời điểm sử dụng đồ dùng . ..
7
2.1. Linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng...
7
2.2. Sử dụng đồ dùng phù hợp với từng giai đoạn kiến thức của học sinh
9
2.3. Đồ dùng phải phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh 
11
3. Lựa chọn phương pháp, hình thức giảng dạy kết hợp với việc sử
dụng đồ dùng .
12
3.1. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với phương pháp nêu vấn
đề - đàm thoại 
12
3.2. Sử dụng đồ dùng dạy học dưới hình thức hoạt động nhóm 
14
3.3. Sử dụng đồ dùng dạy học trong phần trò chơi ở cuối tiết học 
15
4. Tránh lạm dụng khi sử dụng đồ dùng dạy học ..
16
5. Sử dụng phương tiện dạy học hiện đại có hiệu quả 
16
6. Làm thêm đồ dùng dạy học 
17
IV – Kết quả .
18
PHẦN III – KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..
19
1. Kết luận ..
19
2. Khuyến nghị ...
20

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_su_dung_do_dung_day_h.docx
  • pdfSáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp sử dụng đồ dùng dạy học nhằm nâng cao chất lượng dạy và học m.pdf