Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4

Bậc Tiểu học là bậc học nền tảng tạo cơ sở ban đầu cho mọi quá trình giáo dục ở các cấp học tiếp theo nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách con người, đặt nền móng vững chắc cho giáo dục phổ thông và toàn bộ hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Điều 27 luật Giáo dục năm 2005: “Mục tiêu giáo dục Tiểu học là hình thành cho học sinh những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất và thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhân cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học Trung học cơ sở”.Ở bậc Tiểu học, việc học toán giữ một vai trò quan trọng. Nó góp phần vào việc rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy hình thành nhân cách. Dạy học toán ở tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán vào các tình huống thực tiễn đa dạng, phong phú và những vấn đề thường gặp trong cuộc sống. Nhờ học toán học sinh có điều kiện rèn luyện và phát triển năng lực tư duy, rèn luyện phương pháp suy luận và những phẩm chất cần thiết của người lao động mới đáp ứng được yêu cầu của công nghệ 4.0. Chất lượng giải toán của học sinh phụ thuộc nhiều vào phương pháp dạy học của giáo viên. Vì phương pháp, hình thức dạy học là yếu tố quyết định chất lượng và hiệu quả dạy học ở Tiểu học. Mỗi giáo viên cần lựa chọn, sử dụng phương pháp, hình thức thích hợp để giúp học sinh tìm ra được cách giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất.
doc 17 trang Hương Thủy 27/10/2025 270
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4
thành thạo. Có thể lúc đầu các em còn lúng túng nhưng sau đó sẽ quen dần. Vì vậy việc rèn kĩ năng đặt đề toán là yêu cầu quan trọng, cần phải làm.
 - Nêu bài toán rồi giải bài toán theo sơ đồ sau: 
 ?m
 Chiều dài:
 30m
 Chiều rộng:
 ?m
 - Điền số thích hợp vào chỗ chấm để hoàn chỉnh các bài toán sau:
 a. Chiều cao của ba bạn Thủy, Tâm, Minh lớp em lần lượt là ....cm, ..cm và..cm. Hỏi trung bình số đo chiều cao của mỗi bạn là bao nhiêu xăng - ti - mét?
 b. Hiện nay mẹ hơn con ...tuổi, tuổi mẹ gấp ..lần tuổi con. Tính tuổi mỗi người.
 c. Một lớp học có  .học sinh. Số học sinh nam ít hơn số học sinh nữ làhọc sinh. Hỏi lớp học đó có bao nhiêu học sinh nam, bao nhiêu học sinh nữ?
 * Với dạng bài đặt đề toán cần chú ý: Tình huống mà học sinh nêu ra phải phù hợp với nội dung bài toán, phù hợp với thực tiễn.
 2.2.7. Dạy học các dạng bài điển hình nâng cao:
 Trong một lớp có nhiều đối tượng học sinh khác nhau. Nếu học sinh trung bình chỉ cần hoàn thành hết các bài tập trong sách giáo khoa thì học sinh khá giỏi có nhu cầu mở rộng tầm hiểu biết. Mặt khác, khi dạy học sinh chúng ta phải dạy theo đối tượng học sinh. Vì vậy, ngoài biện pháp giúp đỡ học sinh chưa hoàn thành thì cần có biện pháp để giúp học sinh hoàn thành tốt được học nâng cao hơn. 
 - Trong các tiết dạy học trên lớp, sau khi có những học sinh hoàn thành các bài tập trong sách giáo khoa, giáo viên có thể tăng mức độ khó của các bài toán bằng cách: 
 + Giữ nguyên dữ kiện nhưng tăng yêu cầu (có thể giải bằng nhiều cách, hỏi thêm một số câu hỏi khó).
 + Phát biểu các dữ kiện đã cho dưới dạng ẩn.
 + Giảm bớt dữ kiện nhưng dữ nguyên yêu cầu.
 + Làm phức tạp hóa các số liệu tính toán.
 - Đưa thêm các bài tập nâng cao khác có liên quan đến toán điển hình
 Dựa vào “Những điều cần biết về toán điển hình”, có thể đưa một số bài toán nâng cao và hệ thống câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh giải các bài toán đó. Tuy nhiên, khi dạy học, tùy thuộc trình độ học sinh, giáo viên có thể tăng hoặc giảm số lượng bài toán nâng cao cũng như mức độ nâng cao của từng dạng toán. Song để hướng dẫn được học sinh giải bài toán thì giáo viên phải có bài giải mẫu, xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp.
 2.2.8. Phối hợp thực hiện linh hoạt có hiệu quả các phương pháp, hình thức dạy học mới trong quá trình giảng dạy và rèn kĩ năng học tập cá nhân và việc học tập tương tác trong nhóm cho học sinh.
 Để dạy tốt các tiết học toán giáo viên cần sử dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học mới như: phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề khi dạy các tiết hình thành kiến kiến mới, phương pháp trò chơi khi thực hành luyện tập; Hình thức hoạt động  nhóm, cá nhân, khăn trải bàn...Đặc biệt, hình thức tổ chức hoạt động nhóm: Nhằm giúp học sinh tham gia tính cực chủ động vào quá trình học tập, học sinh có thể chia sẻ kinh nghiệm, ý kiến hay để cùng giải quyết một vấn đề khó khăn nào đó. Căn cứ vào nội dung từng bài, từng hoạt động để lựa chọn phương pháp và hình thức tổ chức cho phù hợp, không lạm dụng một phương pháp hay hình thức nào sẽ làm cho học sinh dễ nhàm chán. 
 Khi dạy các bài hình thành kiến thức mới hoặc đặc biệt là các tiết thực hành cần phối hợp nhuần nhuyễn việc học tập cá nhân với việc học tập tương tác trong nhóm. Có thể là nhóm đôi trao đổi, kiểm tra chéo bài cho nhau; có thể là nhóm 4 học sinh chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong thực hành vẽ sơ đồ đoạn thẳng, cách xác dạng toán 
 Chẳng hạn: Khi xác định tỷ số và các yếu tố để vẽ được sơ đồ thì việc học tương tác trong nhóm thể hiện rất rõ nét. Giáo viên hướng dẫn học sinh thảo luận để nhận diện được các yếu tố và tỷ số để vẽ sơ đồ.
 Tóm lại trong mỗi giờ học, tiết học giáo viên phải là người lựa chọn các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học sao cho phù hợp với từng dạng bài, phù hợp với tình hình của lớp mình, làm sao giúp học sinh phát huy hết khả năng nhận thức của mình. Các em được suy nghĩ, tìm tòi và tự chiếm lĩnh kiến thức. Từ đó các em có thể vận dụng vào bài làm của mình. Vì không có phương pháp, hình thức dạy học nào là tối ưu cả, mà đây là nghệ thuật sử dụng phối hợp các phương pháp, hình thức để phù hợp với tiết học, môn học và phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình thì giờ dạy sẽ hiệu quả và thành công. Việc sử dụng phương pháp dạy học gắn chặt với các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo mục tiêu, nội dung, đối tượng và điều kiện cụ thể mà có những hình thức tổ chức thích hợp như: học cá nhân, học nhóm; học trong lớp, học ở ngoài lớp... Cần chuẩn bị tốt về phương pháp đối với các giờ thực hành để đảm bảo yêu cầu rèn luyện kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn, nâng cao hứng thú cho học sinh.
 2.2.9. Tăng cường việc kiểm tra, đánh giá học sinh trong giờ dạy.
      Trong dạy học, việc đánh giá học sinh vô cùng quan trọng. Vì có thường xuyên đánh giá thì mới biết được mức độ tiếp thu kiến thức của học sinh để điều chỉnh hình thức và phương pháp cho phù hợp. Biết được sự tiến bộ của từng học sinh trong từng tiết dạy. 
 Ví dụ: Việc đọc đề bài để nắm bắt các dữ liệu đã cho trong bài toán đã đúng chưa ? Xác định đúng yêu cầu của bài chưa ? Có cần điều chỉnh không ? Lời giải đã phù hợp với phép tính chưa ?... Đánh giá về kiến thức, kĩ năng, cách thức làm bài, trình bày bài.
 Hình thức đánh giá là giáo viên đánh giá bằng lời trực tiếp với từng học sinh, uốn nắn sửa cho học sinh từng chi tiết nhỏ trong từng bước của bài làm. Đánh giá bằng nhận xét viết vào vở thông qua kết quả làm bài của học sinh. Ngoài ra giáo viên cần tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau, có thể cho học sinh đổi chéo vở kiểm tra kết quả bài làm rồi nhận xét, đánh giá hoặc khi bạn làm bài trên bảng thì các em quan sát rồi đánh giá, sửa sai cho bạn. Làm như thế thì mới thấy được sự sáng tạo của học sinh trong đánh giá và cũng qua đánh giá của học sinh thì mới thấy được sự nắm bắt được kiến thức và vận dụng vào thực hành của các em qua từng tiết học.
 Trong quá trình học sinh thực hành luyện tập giáo viên phải thường xuyên kiểm tra, uốn nắn kịp thời cho những học sinh chưa thực hiện được yêu cầu của bài tập, có thể sai ở các bước vẽ sơ đồ, các bước giải hoặc sai ở khâu tính toán. 
 Đánh giá sau mỗi bài tập, mỗi nội dung kiến thức trong bài tôi thường ra đề kiểm tra ngắn cho học sinh làm, sau đó tôi thu bài đánh giá kết quả để nắm bắt những kỹ năng học sinh còn chưa đạt để tổ chức rèn luyện thêm.
 2.2.10. Động viên khích lệ, tạo hứng thú cho mọi đối tượng học sinh của lớp trong giờ học
 Trong các giờ học, giáo viên vào lớp phải tạo ra không khí thoải mái, thân thiện, gần gũi. Quá trình dạy học giáo viên cần phải giao nhiệm vụ cho học sinh một cách rõ ràng, phù hợp với khả năng của từng em nhằm kích thích hứng thú học tập của tất cả các em bằng các hình thức thi đua, khen thưởng. Ngoài ra giáo viên cần kiểm tra bài vở học sinh kể cả học sinh chưa hoàn thành cũng như học sinh hoàn thành tốt để tất cả các em cùng học tập. Tránh tình trạng ra bài tập quá khó nên một số học sinh không học tập hoặc học tập không hiệu quả. Cần động viên khích lệ các em kịp thời, khen chê đúng mực, tránh việc học sinh làm chưa đúng giáo viên quát mắng, chê bai học sinh để các em sợ dẫn đến rụt rè, thiếu tự tin trong học tập. Luôn quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp, công bằng trong đánh giá, nhận xét, khen chê. Đối với học sinh chưa hoàn thành thì dù chỉ có một sự tiến bộ nhỏ thôi giáo viên cũng phải quan tâm khích lệ động viên để các em tự tin hơn trong học tập. Nếu như giáo viên có thái độ ân cần, gần gũi, thân thiện với học sinh thì giờ học sẽ rất thành công. Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen hơn chê. Tuy nhiên, nếu ta không biết kết hợp tâm lý từng học sinh mà cứ quá khen sẽ không có tác dụng kích thích. Đối với những em chậm tiến bộ, thường rụt rè, tự ti. Vì vậy, luôn luôn chú ý nhắc nhở, gọi các em trả lời từng câu hỏi nhỏ để gợi ý các em trả lời... hoặc lên bảng làm bài. Chỉ cần các em có một “tiến bộ nhỏ” là tôi tuyên dương kịp thời để từ đó các em sẽ cố gắng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Đối với những em hoàn thành tốt phải có những biểu hiện vượt bậc, có tiến bộ rõ rệt tôi mới khen. Chính sự khen, chê đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh trong lớp đã có tác dụng khích lệ học sinh trong học tập
 2.4. Kết quả thực nghiệm :
 2.4.1. Đề khảo sát :
 Bài toán 1: Hiệu của hai số là 150. Tỉ số của hai số đó là. Tìm hai số đó.
 Bài toán 2: Trong sân có 25 con gà và vịt, số vịt bằng số gà. Hỏi có bao nhiêu con gà, bao nhiêu con vịt?
 Bài toán 3: Tìm hai số biết hiệu của chúng là số bé nhất có bốn chữ số, số thứ nhất gấp 5 lần số thứ hai.
 2.4.2. Kết quả
 Khi khảo sát 30 học sinh của lớp 4D, tôi thu được kết quả như sau:
Những sai sót phổ biến
Số lượng
%
 Không nhận dạng được dạng toán
 0
0
 Hiểu sai đối tượng
 2
6,7
 Thiếu đối tượng
 3
10
 Thiếu đơn vị
 0
0
 Trả lời chưa đầy đủ
 4
13,3
 Trả lời sai
 0
0
 Sai kết quả phép tính
 2
6,7
 
 Cụ thể với chất lượng học sinh trong lớp tôi dạy đạt được như sau:
Sĩ số
Điểm 9,10
Điểm 7,8
Điểm 5,6
Điểm dưới 5
SL
TL
SL
TL
SL
TL
SL
TL
30
13
43,4
12
40
4
13,3
1
3,3

 Sau một thời gian áp dụng tôi nhận thấy chất lượng học tập của học sinh đã có những tiến bộ rõ rệt. Các con từ chỗ ít hứng thú với môn toán giờ đã hăng say, yêu thích môn toán nhất là những bài học có liên quan đến toán điển hình trước các em rất ngại nhưng giờ các em đã thực sự thích thú khám phá.
 Học sinh tự giác, chủ động trong học tập. Một số học sinh trước còn hơi rụt rè, e ngại khi học toán thì giờ các em đã mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến xây dựng bài, nhận xét đánh giá bài của bạn.
 Trước đây học nhóm chưa đạt hiệu quả, đa phần ỷ lại cho một hai học sinh tích cực trong nhóm nhưng bây giờ các em biết tranh luận một cách sôi nổi, chủ động phát huy được tính tích cực, tự giác của các em. Đặc biệt kĩ năng sử dụng sơ đồ đoạn thẳng, xác định các yếu tố cũng được đa phần các em thực hiện một cách nhanh nhẹn không còn lúng túng như trước. Rồi cách vận dụng các công thức đã cho để suy luận làm các bài toán khác nhau có liên quan cũng không làm các em bỡ ngỡ...
Kết quả cho thấy một số em có kỹ năng xác định tỷ số và các yếu tố liên quan nhanh chóng hơn trước. Hoặc như cách vận dụng giải dạng toán điển hình được các em vận dụng một cách thành thạo như em Tuyết Lan, em Phát Đạt, em Thu Trang, em Minh Vy, em Bùi Phúc, em Phương Anh, em Thùy Linh, em Ngọc Ánh, em Mỹ Tâm Hay như một số em trước đây còn rụt rè, nhút nhát, lúng túng không biết làm bây giờ các em đã tự tin biết áp dụng các bước để làm được như các em: Quỳnh Anh, Nguyệt, Thiên Hoàng, Thảo Hương, Hoàng Minh, Trung, Hải Yến... Chính vì vậy mà chất lượng học tập của lớp được nâng lên rõ rệt.
 Qua quá trình trực tiếp đứng lớp giảng dạy để giờ học có hiệu quả nói chung và các giờ dạy học toán về nội dung hình học nói riêng, người giáo viên cần biết xây dựng được trong mỗi tiết học phải dạy cho học sinh cái gì? dạy như thế nào? Hơn nữa dạy học các bài về dạng toán đển hình cho học sinh lớp 4 không thể nóng vội mà phải hết sức nhiệt tình, tâm huyết, tỉ mỉ, linh hoạt để hình thành cho các em một phương pháp học tập có hiệu quả, đó là tích cực học tập, tư duy sáng tạo, rèn cho các em đức tính chăm chỉ học tập cẩn thận trong làm bài học nói chung và bài tập về dạng toán đển hình cho học sinh lớp 4 nói riêng. Giáo viên phải có kế hoạch cụ thể về các quy định đến phương pháp vận dụng sao cho phù hợp với từng đối tượng HS để hướng dẫn các em học tốt, khuyến khích các em bằng sự hăng say, hứng thú học tập đạt kết quả cao. Kiên trì chịu khó không nôn nóng trước sự phát triển chậm của một số học sinh trong lớp, phải biết ghi nhận từng tiến bộ của các em dù là nhỏ nhất.
 Giáo viên ngoài giờ lên lớp cần phải kết hợp với phụ huynh HS, hỗ trợ phụ huynh HS những phương pháp hướng dẫn giải bài toán cho các con em mình ở nhà góp phần giúp các em khi đến lớp học được dễ dàng.
 Trên đây là một số biện pháp trong việc dạy học dạng toán đển hình ở trong chương trình môn Toán cho học sinh lớp 4 của cá nhân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong các đồng nghiệp đóng góp ý kiến để bản thân hoàn thiện hơn. Qua đó tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng học tập của học sinh Trường Tiểu học Quảng Lưu nói chung và chất lượng học các dạng toán điển hình cho học sinh lớp 4 nói riêng
 3. Kết luận.
 Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã đọc nhiều tài liệu có liên quan, tìm hiểu kĩ hơn thực trạng dạy và học giải toán điển hình lớp 4. Từ đó, tôi đã xây dựng hệ thống bài tập từ dễ đến khó phù hợp với chuẩn kiền thức chương trình, phù hợp với từng đối tượng học sinh để giúp các em khắc phục những sai lầm, tháo gỡ khó khăn khi giải toán. Khi làm những bài tập đó, học sinh được rèn luyện kĩ năng phù hợp với môn học nên chất lượng dạy học giải toán được nâng cao hơn. 
 Trong công tác giảng dạy của người giáo viên thì vấn đề nâng cao chất lượng dạy học nói chung và chất lượng của học sinh nói riêng là vấn đề ai cũng mong muốn. Song để làm được điều này đòi hỏi cá nhân mỗi giáo viên phải phấn đấu hết mình cho việc giảng dạy. Việc soạn bài và tổ chức các hoạt động cho học sinh là chủ yếu, giáo viên chỉ đóng vai trò hướng dẫn, trọng tài khoa học cho các em kiểm chứng kết quả của mình. Khi lập kế hoạch người giáo viên phải dự đoán trước được tình huống có thể xảy ra trong quá trình lên lớp. Phải xây dựng cho mình kế hoạch, hệ thống phương pháp thích hợp và những phương pháp thay thế hiệu quả nhất để khắc phục những sai lầm dù là nhỏ nhất. Với cách này sẽ gây nhàm chán cho học sinh tiếp thu nhanh nhưng lại là cách giúp học sinh còn tiếp thu chậm học tốt hơn. Để khắc phục sự nhàm chán cho học sinh nổi trội giáo viên cần đưa ra những tình huống mang tính tìm tòi và mang tính sáng tạo cho học sinh để đối tượng này phải suy nghĩ, tìm cách giải quyết. Trong quá trình giảng dạy người giáo viên không được bằng lòng với những gì mình đã làm được mà luôn luôn tìm tòi, phát hiện ra những điều mới lạ, những sáng kiến hay. Đó là những điều tất yếu phù hợp với sự phát triển không ngừng của xã hội thời hiện đại.
 Với sự nổ lực nghiên cứu tìm tòi, học hỏi và áp dụng, thực nghiệm trong giảng dạy của mình về: “ Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học giải toán điển hình cho học sinh lớp 4” tôi thấy rất có hiệu qủa.Tôi muốn chia sẻ kinh nghiệm cùng các đồng nghiệp áp dụng để góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy môn toán ở cấp tiểu học nói chung và giảng dạy các dạng toán điển hình ở lớp 4 nói riêng.
 Tuy nhiên ý tưởng thì nhiều song kinh nghiệm còn hạn chế, nên quá trình thực hiện và trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp và Hội đồng khoa học góp ý cho tôi để tôi có thêm kinh nghiệm quý giá phục vụ cho công tác giảng dạy môn toán được tốt hơn.
 4. Cam kết:
 Tôi xin cam kết đây là một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy toán điển hình ở lớp 4 của mình viết, không sao chép nội dung của người khác.
 	 Tôi xin chân thành cảm ơn!
 Xác nhận của Nhà trường
...., ngày 10 tháng 9 năm 2021
Người viết

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_d.doc