Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khi dạy các bài phép nhân trong bảng

Môn toán là một môn khoa học cơ bản ở bậc tiểu học. Ngày nào các em cũng được học toán. Toán ở bậc Tiểu học là những kiến thức phổ thông cơ bản, là cơ sở cho mai sau đối với mỗi học sinh. ở lớp 1,2 học sinh làm quen với các phép cộng, trừ đơn giản. Lên lớp 3, học sinh được học thêm hai phép tính mới đó là phép nhân và phép chia. Đây là hai phép tính khó, hết sức trìu tượng đối với mỗi học sinh tiểu học. Mặt khác, lứa tuổi học sinh lớp 3 là lứa tuổi khả năng tư duy trìu tượng còn kém, chủ yếu tư duy bằng hình tượng cụ thể. Các em thường đi từ trực quan, những ví dụ cụ thể để đến tư duy khái quát, để hình thành những kĩ năng, kĩ xảo trong giải toán. Vì vậy khi dạy các bảng nhân, giáo viên phải giúp học sinh hiểu được bản chất của phép nhân chứ không phải chỉ là học thuộc các bảng nhân đó. Như vậy, học sinh mới hiểu, nhớ lâu và biết vận dụng vào tính toán sau này.Trong những bảng nhân đầu, tôi thử dạy bằng phương pháp cũ thì thấy học sinh lớp mình không hứng thú học lắm. Các em chưa nắm được bản chất của phép nhân mà chỉ là bắt chước cô để hình thành cách tính toán nên hiệu quả bài làm chưa cao, chưa chắc chắn. Nếu không được rèn luyện thường xuyên thì sau một thời gian các em sẽ quên
doc 18 trang Hương Thủy 21/04/2025 80
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khi dạy các bài phép nhân trong bảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khi dạy các bài phép nhân trong bảng

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp khi dạy các bài phép nhân trong bảng
g. Theo hướng đổi mới này, học sinh tự phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới của bài học. Giáo viên không làm thay, không áp đặt học sinh mà giáo viên là người tổ chức đưa ra nhiệm vụ học tập, học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập theo sự chỉ đạo của giáo viên. Với phương pháp này nếu tổ chức không khéo thì tiết học rất dễ nhàm chán, khô cứng. Giáo viên phải làm thế nào để lôi cuốn, thu hút các em vào giờ học, làm thế nào để tiết học phải sôi nổi, sinh động. Theo tôi, để hình thành bảng nhân, nên áp dụng bằng phương pháp hoạt động vật chất cụ thể (có thể là que tính, bàn tính, bông hoa, cái thuyền, con gà ...) để ghi lại hoạt động của mình ( hoạt động bằng ngôn ngữ) bằng các biểu thức số học. Cùng với việc hình thành kiến thức mới, giáo viên cho học sinh ôn luyện, củng cố bằng nhiều hình thức bài tập khác nhau sẽ giúp cho các em nắm chắc, học thuộc bảng nhân ngay tại lớp. Từ đó, biết vận dụng vào giải toán đố.
Đối với một tiết dạy thành lập bảng nhân, tôi đã tiến hành theo các bước sau:
 Bảng nhân thứ nhất 
Bảng nhân thứ hai 
B1: Hình thành bảng nhân thứ nhất 
B1: Hình thành bảng nhân thứ hai
B2: Học thuộc bảng nhân thứ nhất
B2: Học thuộc bảng nhân thứ hai
B3: Luyện tập 
B3: Luyện tập
B4: Củng cố

A: Bước 1: Hình thành bảng nhân
1. Đối với các phép nhân có thừa số 2,3,4, (những bảng nhân đầu), tôi thường tiến hành theo các bước sau:
Ví dụ: Khi dạy bài: Phép nhân có thừa số 4
Phép nhân là phép cộng các số hạng bằng nhau. Muốn hình thành phép nhân thì ta phải bắt đầu từ phép cộng các số hạng bằng nhau. Nhưng nếu như giáo viên chỉ được ra một loạt các phép cộng có các số hạng bằng nhau rồi học sinh chuyển thành phép nhân thì tiết học sẽ nhàm chán . Bằng đồ dùng trực quan, được mắt thấy, tay hoạt động các em dễ dàng tiếp thu hơn. Vả lại, nó giúp các em bước đầu làm quen với những bài toán đố sau này. Đối với các em, que tính là vật rất gần gũi các em có sẵn, dễ thực hành. Vì vậy khi thành lập bảng nhân 4, yêu cầu học sinh lấy que tính bó thành nhiều bó, mỗi bó gồm 4 que tính. Lúc thực hành, các em làm sẽ nhanh, gọn, rõ ràng, nổi bật được vấn đề nếu giáo viên yêu cầu nhận xét về số lần lấy, kết quả lấy .
- Sau khi học sinh có những bó 4 que tính, tôi yêu cầu các em:
- Hãy lấy 1 lần 4 que tính -> có 4 que tính
- Hãy lấy 2 lần 4 que tính -> có ( 4 + 4) que tính.
+ Học sinh tính kết quả bằng 8 que tính
+ Có mấy số hạng giống nhau? (2 số hạng)
+ Các số hạng đều bằng mấy ? (bằng 4)
+ Đổi phép cộng bằng phép nhân ( 4 x 2 ) = 8 
- Hãy lấy 3 lần 4 que tính -> có (4 + 4 + 4) que tính
+ Học sinh tính kết quả bằng 12.
+ Có mấy số hạng giống nhau ? (3 số hạng)
+ Đổi phép cộng thành phép nhân ( 4 x 3 = 12)
- Sau khi đã lấy 3 ví dụ, giáo viên cho học sinh nhận xét mỗi lần lấy thêm 1 bó que tính thì kết quả sẽ tăng lên 4 đơn vị. Từ đó, học sinh rút ra : Nếu thừa số thứ hai tăng thêm một đơn vị thì tích sẽ tăng lên 4 đơn vị.
- Tôi để 3 phút cho học sinh tự làm vào vở bài tập sau đồng thời gọi 1 em lên bảng làm.
	4 x 1 = 4	4 x 6 = 24
	4 x 2 = 8 	4 x 7 = 28
	4 x 3 = 12 	4 x 8 = 32
	4 x 4 = 16	4 x 9 = 36
4 x 5 = 20 	4 x 10 = 40
(Vận dụng cách lấy tăng một số lên nhiều lần, giáo viên hướng dẫn học sinh lập nên bảng nhân thứ nhất của bài phép nhân có thừa số 4).
- Các em đã lập được bảng nhân thứ nhất của bài phép nhân có thừa số 4. Để có bảng nhân thứ 2 giáo viên có thể gợi ý.
1 lần 4 là mấy?
2 lần 4 ?
3 lần 4 ?
Từ đó học sinh hiểu được mối liên quan giữa các thành phần của phép tính. Nếu ta đổi chỗ thừa số thì tích của chúng không thay đổi.
	1 x 4 = 4	6 x 4 = 24
	2 x 4 = 8 	7 x 4 = 28
	3 x 4 = 12 	8 x 4 = 32
	4 x 4 = 16	9 x 4 = 36
5 x 5 = 20 	10 x 4 = 40
2. Đối với các phép nhân có thừa số 7,8,9 (những bảng cuối) có thể vận dụng bảng nhân trước để hình thành bảng nhân sau:
Ví dụ: Khi dạy bài phép nhân có thừa số 8:
Khi thành lập bảng nhân cuối giáo viên không phải máy móc hình thành lại tất cả những phép nhân đã có trong các bảng trước bằng đồ dùng trực quan . Vì như vậy chỉ là một việc làm thừa, không có tác dụng. ở đây ta có sử dụng trực quan nhưng cách làm sẽ khác. Giáo viên và học sinh cùng tham gia. Chủ yếu giáo viên gợi ý để học sinh biết rút ra qui luật tính để tính cho nhanh . Như vậy, ta đã dần dần đưa các em tiến tới tư duy trìu tượng hơn .
* Dựa vào các bảng nhân đã học, học sinh làm bài tập:
	1 x 8 = 	5 x 8 = 
	8 x 1 = 	8 x 5 = 
	2 x 8 = 	6 x 8 = 
	8 x 2 = 	8 x 6 = 
	3 x 8 = 	7 x 8 =	
	8 x 3 = 	8 x 7 = 
	4 x 8 = 	8 x 4 = 
Như vậy, các em có thể nêu ngay được kết quả các phép tính:
8 x 1, 8 x 2, 8 x 3, 8 x 4, 8 x 5, 8 x 6, 8 x 7,
Để giúp các em tìm được kết quả của các phép tính 8x8, 8x9, 8x10 tôi đưa ra ví dụ sau:
* Trong hội thi khéo tay hay làm, Bình cắt được một số hoa. Mỗi lần, Bình cắt được 8 bông hoa và đã cắt tất cả 7 lần. Như vậy Bình cắt được tất cả bao nhiêu bông hoa?.
Dựa vào bảng nhân trước, học sinh tính được số hoa bằng cách lấy.
	8 x 7 = 56
	Giáo viên viết 8 x 7
	 56	
Giả sử Bình cắt thêm một lần nữa được 8 bông hoa như vậy để biết sau 8 lần cắt Bình cắt được bao nhiêu bông hoa thì con làm như thế nào?
( 8 x 7 + 8 )
8 x7 = ? Vậy con có tìm được kết quả 8 x 7 + 8 không ?
8 x 7 + 8 chính là 8 x ? ( 8 x 8 )
8 x 8 có thể viết thành 8 x 7 +8. Tương tự các con tìm kết quả của các phép tính 8 x 9, 8 x 10.
Sau khi học sinh đã tìm được kết quả của các phép tính 8 x8 , 9 x 9, 
8 x10, giáo viên yêu cầu các em viết các thừa số còn thiếu ở bài tập.
	8 x 1 = 8 .........	8 x ....... = .......
	8 x 1.....= .........	8 x ....... = .......
	8 x........= .........	8 x ....... = .......
	8 x........= .........	8 x ....... = .......
	8 x........= .........	8 x ....... = .......
Như vậy, các em đã tự mình lập được bảng nhân có thừa số thứ nhất. Dựa vào tính chất giao hoán của phép nhân, học sinh lập bảng nhân 8 thứ 2:
	1 x 8 = ........
	2 x 8 = ........
	3 x 8 = ........
	....................
	10 x 8 = ......
B. Bước 2: Học thuộc bảng nhân:
Sau khi thành lập được bảng nhân, ở từng bảng, giáo viên luyện cho học sinh thuộc bảng nhân bằng cách đọc thầm 3 lượt, đọc đồng thanh 1 lượt. Học sinh đọc, giáo viên có thể che ở mỗi phép tính đi một chữ số hay dấu bằng hoặc dấu phép tính để luyện trí nhớ cho học sinh. Ta thay đổi nhiều hình thức luyện học thuộc như vậy sẽ giúp cho các em thuộc ngay tại lớp mà không cảm thấy chán. Nếu em nào đọc tốt, giáo viên cho điểm để động viên.
C. Bước 3: Luyện tập:
Học sinh tiểu học rất chóng nhớ nhưng lại rất chóng quên. Nếu chỉ học thuộc lý thuyết mà không luyện tập nhiều thì các em có thể quên ngay. Vì vậy sau khi đã thuộc bảng nhân rồi, các em cần được luyện tập khắc sâu bài học. Để đạt hiệu quả cao đối với mỗi tiết dạy, người giáo viên cần phải biết phối hợp các hình thức tổ chức dạy học hợp lý. Việc phối hợp các hình thức tổ chức dạy học hợp lý trong môn toán làm cho giờ học hấp dẫn. Hệ thống các bài tập đưa ra phải đa dạng, phong phú. Có nhiều dạng bài tập . Có thể là tính, điền số, trắc nghiệm, toán đố, tìm x ... nhưng giáo viên cần phải lựa chọn cho hợp lý. Để tránh cho học sinh xuôi chiều và nâng cao hơn một chút sau bảng nhân thứ nhất, tôi đưa ra các bài tập sau: 
 ( Có thể là thừa số, là tích )
4 x 	 = 16 	6 x 	 = 6
	 x 3 = 12	36 = 4 x 
	4 x 	 = 20	8 = 	 x 2
Học sinh phải thuộc bảng nhân 4 thứ nhất thì sẽ điền được ngay số vào ô trống.
* Đối với bài phép nhân có thừa số 8.
Các em hay thích bắt chước cô giáo, giáo viên có thể cho các em dạng bài toán trắc nghiệm kiểm tra đúng sai. Tự mình được đánh giá bài làm, các em thích thú và qua đó cũng là củng cố bảng nhân đã học .
Điền Đ hoặc S.
8 x 2 = 10 


 8 x 4 = 32






8 x 3 = 24


8 x 5 = 40






8 x 1 = 8 


8 x 0 = 8 






8 x 6 = 46


8 x 7 = 56


Biết được kết quả đúng hay sai chứng tỏ các em thuộc bảng nhân.
Thuộc bảng nhân thứ hai rồi, các em cũng lại được luyện tập qua các bài như:
 Ví dụ: Phép nhân thừa số 4:
Nối các biểu thức với kết quả 
36 
32 
1 x 4 
8 
9 x 4 
7 x 4 
28 
5 x 4 
4
8 x 4 
20
2 x 4
Hay ở bài: Phép nhân có thừa số 8 :
Giáo viên có thể liên hệ với bài cũ gấp một số lên nhiều lần. Từ đó củng cố được dạng toán này .
10
9
8
7
6
5
4
3
2
1
Gấp 8 lần
Mỗi bài toán có những dạng khác nhau nhưng đều nhằm giúp các em thêm một lần nữa được học thuộc nhân.
Khi làm bài, bao giờ tôi cũng gọi một em lên bảng. Cả lớp làm xong sẽ nhận xét bài của bạn. Để khắc sâu bài học, tôi thường đặt ra một số câu hỏi:
- Tại sao con lại điền số 4 vào ô trống ?
- Vì sao 8 x 2 = 10 là sai
- Theo con 8 x 6 = ?
Cuối cùng để vận dụng kiến thức vừa học, giáo viên nên đưa ra một bài toán đó. Toán đố cũng có nhiều dạng bài khác nhau.
Có thể là : Cho đề bài, học sinh tóm tắt rồi giải.
- Nhìn tóm tắt rồi giải (tóm tắt có thể bằng lời hoặc bằng sơ đồ)
- Nhìn tranh đặt đề toán rồi giải.
Tuỳ theo từng bài mà giáo viên đưa ra bài tập cho phù hợp.
Ví dụ: Bài: Phép nhân có thừa số 4.
Cho tóm tắt, yêu cầu học sinh giải.
1 bạn: 5 quyển vở
4 bạn : ? quyển vở
Tôi đặt câu hỏi gợi ý đầu bài cho biết dữ kiện gì? Hỏi cái gì?
Muốn biết 4 bạn có bao nhiêu quyển vở, con làm tính gì?
* Bài: Phép nhân có thừa số 8:
Từ những dạng toán đã quen thuộc, giáo viên có thể phát triển khả năng tư duy của các em bằng cách cho các em đặt đề toán phù hợp với nội dung của bức tranh và giải.
Bức tranh của tôi vẽ 8 con cua mỗi con có 2 càng, 8 chân. Tôi yêu cầu các em quan sát thật kỹ bức tranh và cho biết:
- Bức tranh vẽ con gì ? (con cua)
- Có mấy con cua ? (8 con).
- Mỗi con cua có mấy càng ? (2 càng)
- Và mấy cái chân ? (8 chân)
Có thể gọi 3 em đặt đề. Các bạn khác nhận xét.
Khi đã đặt đề xong, học sinh nêu tóm tắt rồi giải.
Từ hình vẽ đó, tôi có thể che bớt đi một số con cua. Học sinh nhìn vào tranh và có thể đặt được thêm những đề toán khác. Như vậy, từ một bức tranh thôi, giáo viên có thể tạo ra cho các em nhiều đề bài mà tự học sinh đặt đề và tự học sinh giải toán. Từ đó tư duy của các em càng được phát triển. Học sinh cảm thấy thích thú, giờ học sẽ sôi nổi hẳn lên.
Bước 4: Củng cố:
Trong giờ học, các em phải ngồi chăm chú nghe giảng , nhớ kiến thức mới, vận dụng kiến thức để làm bài tập . Trong khi đó học sinh tiểu học không có khả năng ngồi yên được lâu .Nếu phải căng thăng trong 40 phút thì các em cảm thấy mệt mỏi, chán nản. Các em lại vốn ưa hoạt động, tò mò, thích những điều mới lạ. Vậy chúng ta nên tổ chức cho các em tham gia những trò chơi bổ ích có nội dung toán học để các em chơi mà học,học mà chơi. Từ đó củng cố lại thêm kiến thức cho học sinh, đồng thời giảm sự căng thẳng và tăng sức hấp dẫn của giờ học, gây hứng thú, tạo không khí thoải mái trong giờ học . Căn cứ vào nội dung kiến thức, trình độ học sinh và điều kiện có , giáo viên lựa chọn trò chơi để đưa vào dạy học như một hoạt động dạy toán. Nên thay đổi nội dung trò chơi . Ví dụ : Trò chơi " nhân viên bưu điện giỏi "." Đưa thỏ về chuồng , " Bịt mắt ghép nhà " hay " Ai nhanh hơn" .
Lần thứ nhất: Thi giữa 2 học sinh xem ai nhanh hơn.
Nội dung trò chơi: Trên bảng của cô có các số và dấu của phép tính. Hai bạn sẽ lên lập các phép tính đúng trong 1 phút. Ai lập được nhiều và phép tính đúng thì người ấy thắng cuộc.
Các số và dấu :
8
7
5
9
8
6
8
x
x
x
x
=
=
=
64
40
8
35
72
4
8
:
:
:
:
=
=
=

Khi học sinh tham gia chơi, cả lớp cổ vũ hai bạn, không khí thật sôi nổi. Đồng thời qua trò chơi này, các em được củng cố về phép nhân và chia đã học.
Lần thứ hai: Tôi cho nhiều học sinh cùng chơi trò chơi: "Tìm bạn nhanh hơn" bằng cách cho 6 học sinh lên bảng, mỗi học sinh nhận một mảnh giấy có ghi phép tính hoặc kết quả của phép tính. Học sinh nhận được tờ giấy sẽ phải tính nhẩm để tìm kết quả hoặc phải tìm đúng phép tính của mình. Độinào tìm nhanh và đúng là thắng.
Các phép tính ghi trong giấy:
	9 : 3 x 8 
	6 x 1 x 8 
	8 x 6 : 6 
Các kết quả ghi trong giấy là :
	24 , 48 , 8
Với cách học sinh qua trò chơi này, học sinh vừa được củng cố lại kiến thức vừa học, đồng thời rèn luyện cho học sinh tính nhanh nhẹn, tự tin trong việc học toán.
IV. kết quả:
Trên đây là tiến trình tôi đã áp dụng trong giờ toán khi dạy phép nhân trong bảng. Tôi nhận thấy rằng:
- Trong giờ Toán của lớp tôi, học sinh tiếp thu bài nhanh, hiểu bài sâu, nhớ bài lâu và giải được tất cả các bài tập có liên quan với phép nhân từ dễ đến khó.
Phát huy được tính tích cực của học sinh. Các em chủ động, tự tin trong việc chiếm lĩnh kiến thức mới. Học sinh hứng thú khi được thực hành trên đồ dùng tạo ra không khí sôi nổi, thầy trò làm việc nhịp nhàng. Từ chỗ học sinh sợ học toán nay các em đã hứng thứ học tập, mong được tìm hiểu, khám phá ra những kiến thức mới. Các em phấn khởi với kết quả mình đạt được.
- Giáo viên không phải nói nhiều, chỉ là người gợi mở cho các em .
Kết quả qua các lần kiểm tra định kỳ với số liệu như sau:
Bài kiểm tra
Số bài
Điểm số 
1-2
3-4
5-6
7-8
9-10
Đầu năm 
54
0
0
6
20
28
Giữa học kỳ 1
54
0
0
2
13
39
Cuối học kỳ 1
54
0
0
0
7
47
Giữa học kỳ 2
54
0
0
0
4
50
Trong những năm qua, khi dạy các bài về nhân trong bảng, với phương pháp này sau giờ học, tôi thấy tiết học nhẹ nhàng, hấp dẫn, học sinh nắm chắc bài một cách thoải mái không gò bó, căng thẳng.
V. Đối chứng:
Khi dạy phần " Phép nhân trong bảng " Sau mỗi bài dạy, bao giờ tôi cũng chấm bài để đánh giá kết quả tiếp thu bài của các em và tôi thấy rằng dạy theo phương pháp mới hiệu quả hơn nhiều so với phương pháp cũ .
Đây là kết quả về môn toán của lớp tôi đã dạy trong năm nay. theo phương pháp mới và phương pháp cũ khi thực hiện các bài “Phép nhân trong bảng "
Lớp 3I
Phương pháp dạy
Điểm giỏi
Điểm khá
Điểm TB
2013 – 2014
Phương pháp cũ
76%
20%
4%

Phương pháp mới 
90%
10%
0

Nhìn vào bảng trên có lẽ ai cũng nhận thấy sự chênh lệch về tỉ lệ phần trăm học sinh đạt điểm giỏi. Tôi nghĩ rằng với phương pháp mà tôi tiến hành trong những tiết dạy toán có kết quả rất lớn.
VI. Bài học kinh nghiệm:
Muốn xây dựng tiết học toán có hiệu quả, giáo viên cần phải:
1. Nắm vững mục đích, yêu cầu của bài
2. Xác định được trọng tâm của bài.
3. Chọn đồ dùng học tập sinh động, hấp dẫn nhưng đảm bảo tính chất toán học .
4. Thiết kế hệ thống bài tập cho phù hợp, hình thức đa dạng.
5. Hệ thống câu hỏi đưa ra phải cụ thể, dễ hiểu.
6. Nghiên cứu trò chơi để tạo không khí sôi nổi cho lớp học.
7. Cần cho điểm để động viên, khích lệ các em trong giờ học
8. Học hỏi, tiếp thu ý kiến của các ngành, các cấp, đồng nghiệp, nghiên cứu thêm tài liệu.
VII. kết luận:
Trên đây là một số những suy nghĩ và phương pháp mà tôi đã tiến hành trong giờ toán dạy thành lập phép nhân.
"Nhân trong bảng" chỉ là một phần của kiến thức toán lớp 3 nhưng nó vô cùng quan trọng. Có thuộc được những bảng nhân thì mới có thể làm nhanh những bài toán nhân số có nhiều chữ số sau này. Muốn học giỏi toán cần phải học chắc ngay từng bài. Chính vì vậy, tôi rất coi trọng đến việc thiết kế một bài giảng sao cho hiệu quả nhất.
Ngày 26 tháng 3 năm 2014
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm do mình viết không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Trần Lệ Huyền

ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG XẫT DUYỆT KINH NGHIỆM CẤP TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG XẫT DUYỆT KINH NGHIỆM CẤP QUẬN

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_khi_day_cac_bai_phep.doc