Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2
- Lý do chọn đề tài
Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình Toán lớp 2 - Chương trình giáo dục phổ thông 2018, với những hạn chế về tâm lý lứa tuổi, việc đọc, tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số đối với các em còn gặp nhiều khó khăn. Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt kết quả cao. Bản thân tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Với những lý do trên, tôi đã chọn giải pháp là nghiên cứu thực hiện sáng kiến:
“Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hướng dẫn dạy giải bài toán có lời văn cho học sinh lớp 2

ao nhiêu bông hoa? (mỗi lọ cắm 5 bông hoa) - Để biết cắm được mấy lọ hoa ta làm phép tính gì? (Làm phép tính chia) c. Đặt câu lời giải thích hợp. Ví dụ: Mai gấp được 7 chiếc thuyền giấy, Toàn gấp được nhiều hơn mai 5 chiếc. Hỏi Toàn gấp được bao nhiêu chiếc thuyền giấy? ( Bài 1 trang 46 - SGK Toán 2 – Kết nối tri thức với cuộc sống) Việc đặt câu lời giải ở các bài toán đơn không có gì khó khăn. Tuy nhiên, nếu để ý một chút, ta sẽ thấy nội dung câu lời giải thường có 2 phần: Phần 1 ghi cái cần tìm, phần 2 ghi phạm vi cái cần tìm biểu thị. Ví dụ: Số chiếc thuyền giấy Toàn gấp được là: Cái cần tìm Phạm vi cái cần tìm biểu thị Khi hướng dẫn HS đặt câu lời giải, nhiều GV không chú ý đến điều này nên không có quy định cụ thể. Vì vậy mới xảy ra tình trạng HS trả lời theo cảm tính, lúc thế này, lúc thế khác. Đương nhiên, trừ những trường hợp nội dung câu trả lời chỉ có một phần ( Phần 1), thường thì mỗi phép tính có 2 cách trả lời, có thể đặt phần 2 lên trước, phần 1 để sau ( hoặc ngược lại). HS có thể trả lời: - Số chiếc thuyền giấy Toàn gấp được là: Hoặc câu trả lời khác: - Toàn gấp được số chiếc thuyền giấy là: Giáo viên có thể gợi ý cho học sinh một số mẹo nhỏ để viết được lời giải chính xác với yêu cầu câu lời giải cần phải ghi ngắn gọn, đủ ý được mệnh đề khẳng định . Đối với bài toán trong ví dụ trên, có thể dùng các cách hướng dẫn học sinh như sau: + Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi), thay từ “bao nhiêu” bằng từ “số” và thêm từ “là” ở cuối câu để có câu lời giải : "Toàn gấp được số chiếc thuyền giấy là:" + Cách 2: Bỏ từ “hỏi” và từ “bao nhiêu” trong câu hỏi rồi đưa từ "chiếc thuyền giấy" ở cuối câu hỏi lên đầu và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số chiếc thuyền giấy Toàn gấp được là:" + Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Toàn gấp được :..chiếc thuyền giấy?". Học sinh viết câu lời giải: "Toàn gấp được số chiếc thuyền giấy là:" + Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi Toàn gấp được bao nhiêu chiếc thuyền giấy?" để học sinh trả lời miệng: " Toàn gấp được 12 chiếc thuyền giấy " rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): + Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 7 + 5 = 12 (chiếc thuyền giấy), giáo viên chỉ vào 12 và hỏi: "12 là số thuyền giấy của ai gấp được?" (là số thuyền giấy của Toàn gấp được). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số thuyền giấy Toàn gấp được là" Khi viết câu lời giải, GV cũng cần lưu ý HS không được viết tắt các đơn vị đo lường ( VD: Không được viết “kg” mà phải viết là “ ki - lô - gam”, không viết “ l” mà phải viết là “lít”,), các đơn vị này chỉ viết tắt khi đứng sau một số thực (VD: 5 kg, 10 l,). Bên cạnh việc hướng dẫn HS viết câu lời giải đúng, GVcũng cần lưu ý hướng dẫn viết tên đơn vị (danh số) ở kết quả phép tính và ở đáp số cho phù hợp. Các danh số thường là 1 đơn vị kép (chỉ lượng và chỉ tên) như: con gà, cái thuyền, kg gạo,Khi ghi danh số sau kết quả mỗi phép tính, ta chỉ cần ghi đơn vị chỉ lượng đứng trước là: con, cái, kg,nhưng khi ghi đáp số ta cần phải ghi đầy đủ là con gà, cái thuyền, kg gạo, Bước 3: Trình bày bài giải: - Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi tóm tắt, sau gần tóm tắt là trình bày bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân. - Bên cạnh đó, GV luôn luôn nhắc nhở, rèn luyện cho học sinh kĩ năng viết chữ - viết số đúng mẫu - đẹp. Việc kết hợp giữa chữ viết đẹp và cách trình bày đúng cũng là một yếu tố góp phần tạo nên sự thành công trong vấn đề giải toán có lời văn của các em. Ví dụ 1: Một chiếc tàu du lịch chở hai đoàn khách tham quan, đoàn khách thứ nhất có 35 người, đoàn khách thứ hai có 25 người. Hỏi hai đoàn khách tham quan có tất cả bao nhiêu người? ( Bài 5 – Trang 63 – SGK Kết nối tri thức) Bước 4: Kiểm tra lời giải và đánh giá cách giải Hướng dẫn học sinh làm tốt dạng bài Giải toán có lời văn rất quan trọng nhưng việc không kém phần quan trọng đó là kiểm tra lại bài làm của mình. Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, chúng ta dễ dàng thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi giáo viên hỏi: “ Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, tôi luôn hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải để kiểm tra xem giữa lời giải và phép tính đã phù hợp chưa, hợp lí chưa? - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí với yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa? - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. * Để hình thành cho học sinh có kĩ năng, kĩ xảo “giải toán có lời văn” theo các bước trên, đòi hỏi người giáo viên phải thực hiện thường xuyên và liên tục. Tuy nhiên tùy theo từng đối tượng học sinh mà chúng ta áp dụng cho phù hợp. Có thể mở rộng thêm hoặc làm kĩ từng bước. Ví dụ: Đối với học sinh chưa đạt yêu cầu, tôi làm kĩ 2 bước đầu để các em hiểu rõ bản chất của đề bài, có như vậy các em mới làm tốt được bài toán đã cho. Đối với học sinh năng khiếu nếu chúng ta chỉ dừng ở 4 bước trên thì mới chỉ giúp học sinh tìm được lời giải và đáp số của từng bài tập cụ thể mà chưa hề rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo cho học sinh. Do đó, sau khi học sinh luyện tập thành thạo 4 bước, tôi cho học sinh có thói quen làm tiếp một bước nữa đó là khai thác và phát triển bài toán. Đây chính là bước rèn luyện trí thông minh và óc sáng tạo của học sinh. Bởi vậy sau khi học sinh giải xong bài toán và thử lại đúng kết quả, tôi hướng dẫn học sinh cách giải khác (nếu bài giải có nhiều cách giải). 4.8. Chấm chữa kịp thời để uốn nắn, khắc sâu kiến thức, rèn kỹ năng giải toán. Thực hiện đánh giá học sinh theo thông tư 27 của Bộ giáo dục về việc chấm chữa bài cho học sinh tiểu học khối lớp 1 từ năm học 2020 -2021 và lớp 2 bắt đầu từ năm học 2021 - 2022, có nhiều cách đánh giá học sinh. Sau đây là cách mà tôi đánh giá qua bài làm của học sinh: Sau khi học sinh làm xong bài toán tôi tiến hành chấm bài của học sinh ngay tại lớp, khi đó tôi đã động viên kịp thời những em làm tốt, đồng thời nhắc nhở kịp thời những em làm chưa đúng ở chỗ nào để các em nhận ra và kịp thời sửa chữa. Năm nay do dịch bệnh covid kéo dài nên thời gian các con học trực tiếp ở trường là rất ít mà đa số các con học online nên tôi đã hướng dẫn học sinh gửi bài qua zalo để tôi kiểm tra sau đó nhận xét bài làm của học sinh kịp thời. Sau khi dịch bệnh tạm lắng xuống học sinh được đến trường học trực tiếp tôi tôi cho học sinh tự kiểm tra kết quả bài giải của nhau, cứ hai học sinh ngồi cùng bàn tự đổi chéo vở và kiểm tra kết quả bài giải của bạn. Sau đó tôi hỏi vài học sinh về kết quả bài làm của bạn mà con vừa kiểm tra. Học sinh sẽ nêu nhận xét về cái đúng và cái sai của bạn. Cụ thể trong tiết toán tôi đã thường xuyên thực hiện như sau : Sau khi cung cấp kiến thức bài học, học sinh vận dụng giải quyết các bài tập. Tôi luôn cố gắng đảm bảo 100% học sinh trong lớp làm đủ các bài tập. Đối với học sinh khá giỏi thì dễ dàng, còn đối với học sinh trung bình để làm đúng 100% số bài tập ngay tại lớp là khó khăn. Vì vậy trong quá trình học sinh đang làm bài tập, tôi đã quan sát việc làm bài của số học sinh này nhiều hơn, kịp thời phát hiện những chỗ sai để uốn nắn học sinh theo dõi bài chữa trên bảng, biết chỗ sai để học sinh tự chữa ; có thể dùng một vài câu hỏi nhỏ gợi ý. Tuy nhiên gặp những bài khó, học sinh có lỗi lớn về đường lối giải, nhiều học sinh sai thì tôi yêu cầu học sinh nhận xét lỗi sai ở chỗ nào ? Cách sửa thế nào ? Thường thì tôi dùng học sinh có lỗi sai đó nhận xét và sửa trước, nếu học sinh làm được điều đó có nghĩa là cùng một lúc tôi đã củng cố cho học sinh đó và đồng thời chữa chung cho nhiều em khác. Còn gặp bài khó, học sinh lúng túng, tôi dùng câu hỏi gợi ý hoặc dùng học sinh giỏi của lớp tham gia chữa bài. Trong tiết toán, thời gian có hạn, tôi chú ý chấm chữa cho học sinh trung bình, yếu và chú ý tới những lỗi sai mà học sinh mắc nhiều. Với cách làm như vậy lỗi sai không bị kéo dài, mà học sinh có thói quen làm toán đúng, chủ động giải. Tôi cố gắng chữa triệt để những lỗi sai bằng cách + Học sinh chữa lỗi sai nhỏ như : Tên đơn vị, kết quả ... vào ngay trong vở, lỗi lớn như sai cách giải, câu trả lời chưa rõ ý thì chữa ngay vào vở toán khác do lớp quy định. Sau đó tôi kiểm tra chấm chữa, nhận xét phần chữa của học sinh, học sinh phải tự làm bài đó một lần nữa để khắc sâu bài học. Có những học sinh chữa tới hai lần mới đúng cũng được tôi kiểm tra triệt để, cuối cùng phải chữa đúng mới thôi. + Tôi rất chú ý coi trọng tới việc chữa bài của học sinh. Khi học sinh chữa bài, tôi yêu cầu học sinh ngoài việc chữa đúng còn phải trình bày lưu loát, sạch đẹp, rõ ràng hơn. Do đó mà học sinh chữa bài rất thận trọng, chính điều này giúp học sinh nhớ rất kỹ bài giải, lần sau gặp dạng toán khó học sinh rất ít sai sót. 2.9. Đưa các trò chơi vào tiết học Để giúp học sinh có tâm thế tốt để học tốt tiết Toán tôi thường xuyên đưa các trò chơi vào phần khởi động trước tiết học để ôn lại kiến thức bài đã học đồng thời giúp học sinh “Học mà chơi, chơi mà học”, lồng ghép vào giới thiệu bài mới giúp học sinh có hứng thú khi học tiết Toán như trò chơi Xe buýt yêu thương; Sóc nhặt hạt dẻ; Vòng quay kỳ diệu, Ô cửa bí mật, Giải cứu đại dương, Ong đi tìm nhụy,... Sau bài học, để giúp các con học sinh củng cố khắc sâu kiến thức cho học sinh tôi cũng thường xuyên đưa các trò chơi như Trò chơi Ai nhanh hơn; Trò chơi giải đáp nhanh; trò chơi truyền điện; Trò chơi đoàn kết;vào phần cuối bài giúp học sinh hào hứng tham gia vào trò chơi nhằm khắc sâu kiến thức cho học sinh. 3. Kết quả sau khi áp dụng giải pháp sáng kiến Bằng việc áp dụng những biện pháp dạy học như trên, đến nay gần hết năm học 2022 - 2023, tôi thấy học sinh trong lớp có tiến bộ rõ rệt. Các em nắm vững các kiến thức cơ bản, biết vận dụng tốt trong bài làm của mình và ngày càng hứng thú với việc học Toán, không thấy sợ học Toán nữa. Điều đó được minh chứng qua kết quả bảng so sánh sau: Mức đạt ND Đánh giá Sĩ số HS Trước khi thực hiện Sau khi thực hiện Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành Số bài Tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) Số bài Tỉ lệ (%) Họcsinh hiểu đầu bài 44 8 18,2 26 59,1 10 22,7 24 54,5 20 45,5 0 0 HS tóm tắt bài toán 44 7 15,9 22 50 15 34,1 23 52,3 21 47,7 0 0 HS trình bày bài giảng 44 9 20,5 23 52,3 12 27,2 23 52,3 21 47,7 0 0 Trong quá trình giảng dạy trên lớp bằng cách đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ tôi thấy học sinh có nhiều tiến bộ. Số học sinh hiểu đầu bài toán, học sinh tóm tắt và giải chính xác bài toán tăng lên rõ rệt. Số học sinh hoàn thành tốt tăng vượt bậc so với đầu năm, số học sinh chưa hoàn thành giảm hẳn. Để đạt được kết quả trên, theo tôi, người giáo viên phải có lòng nhiệt tình, có tâm huyết với nghề, vượt qua mọi khó khăn tất cả vì học sinh thân yêu. Từ đó, các em sẽ được lĩnh hội kiến thức qua những bài giảng hay, sáng tạo. Từ kết quả trên, có thể khẳng định, sáng kiến đã mang lại hiệu quả rất thiết thực: - Về khoa học: Học sinh được tìm hiểu sâu hơn về kiến thức và kĩ năng làm các bài toán trong chương trình lớp 2. Phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập của học sinh. Phát triển được tư duy toán học cho học sinh từ đó giúp các em yêu thích môn học. - Về kinh tế: Sáng kiến có thể áp dụng trong toàn khối 2 tại trường mà không tốn kém nhiều về mặt vật chất. - Về xã hội: Nó giúp học sinh kĩ năng sáng tạo trong khoa học, có thể áp dụng vào tính toán nhanh, khoa học khi tham gia các hoạt động xã hội. Tạo ra những con người có tính cẩn thận, có trách nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Nội dung các biện pháp mà đề tài đưa ra còn có tính khả thi rất cao vì nó có thể vận dụng đại trà trong nhà trường năm học này và một số năm học tiếp theo mà không tốn kém tiền bạc. III. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT Qua quá trình giảng dạy lớp 2, với lòng say mê, nhiệt tình nghiên cứu và áp dụng thực tế vào lớp học do tôi chủ nhiệm đã giúp tôi hoàn thành ý tưởng của mình. Tôi thấy rằng, muốn học sinh hiểu bài, có kiến thức toán vững chắc thì mỗi giáo viên cần: - Để giúp học sinh có kĩ năng giải toán thành thạo giáo viên cần chú ý nhiều đến kĩ năng: đọc – viết - nói – nghe trong môn Tiếng Việt. Luyện kĩ năng hỏi - đáp giúp các em có vốn từ ngữ lưu thông tốt hơn, giúp các em dễ dàng đặt câu lời giải cho bài toán. - Phải cố gắng khắc phục những sai lầm của các em trong mỗi bài, mỗi phần, mỗi dạng toán, tránh để các sai lầm dồn lại sẽ khó giải quyết. - Khi hướng dẫn giải các bài toán có lời văn, giáo viên cần khuyến khích, động viên học sinh giải bằng nhiều cách khác nhau (nếu có thể) và lựa chọn cách giải hay nhất. - Trong từng tiết học, người giáo viên cũng cần tìm ra nhiều biện pháp, nhiều hình thức hoạt động học tập như: Làm việc chung với lớp, làm việc cá nhân, làm việc theo nhóm... và tập chung chú ý tới cả ba đối tượng để giúp các em học tốt hơn. * Một số đề xuất Để sáng kiến mang lại hiệu quả và đi vào thực tiễn giảng dạy, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số nội dung sau: * Đối với giáo viên: Cần chú trọng việc dạy học sinh giải toán có lời văn. Khi giảng dạy cho học sinh cần chuẩn bị tốt nội dung, hệ thống câu hỏi đưa ra khai thác, quan tâm đến từng đối tượng học sinh, kịp thời uốn nắn sửa sai cách làm bài, trình bày bài làm của học sinh, đặc biệt cần ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin vào dạy học, tăng cường sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy tính tích cực của học sinh. Mặt khác, mỗi giáo viên cần phải luôn luôn có ý thức học hỏi và trau dồi kiến thức để đáp ứng với yêu cầu ngày một đổi mới của xã hội. * Đối với học sinh: Chủ động, tích cực, tự học, tự rèn, tự giác học tập. Nắm được quy trình giải toán có văn. * Đối với phụ huynh: Cần quan tâm và theo sát con em mình hơn. Phối hợp tốt với giáo viên để việc học tập của các em đạt hiệu quả. * Đối với cơ quan quản lí chuyên môn các cấp: Quan tâm tới việc tổ chức các chuyên đề chuyên môn để bàn kỹ phương pháp, hình thức tổ chức dạy các bài khó, tiết khó. Tạo điều kiện để mỗi giáo viên được nói lên những băn khoăn, suy nghĩ của mình trong giảng dạy. Động viên kịp thời đối với giáo viên nhiệt tình, trách nhiệm, giảng dạy. Trên đây mới là những biện pháp của cá nhân tôi trong việc giúp học sinh lớp 2 làm tốt dạng bài giải toán có lời văn nên chắc chắn sẽ còn nhiều khiếm khuyết. Tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp, xây dựng của các đồng chí để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn và được áp dùng rộng rãi trong quá trình dạy học. Tôi xin chân thành cảm ơn! Thái Hòa, ngày 25 tháng 3 năm 2023 Người thực hiện Chu Thị Kim Nhâm
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_huong_dan_day_giai_ba.doc