Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2

Môn toán là môn học không thể thiếu trong các môn học ở Tiểu học. Đây là môn học được coi là khó đối với lứa tuổi các em. Môn học này yêu cầu học sinh phải hiểu được cách tính các dạng toán từ đơn giản đến phức tạp, các em phải tư duy nhiều hơn, tự tìm ra cách giải của bài.

Đối với học sinh Tiểu học nói chung, đặc biệt là học sinh lớp 1, lớp 2, phạm vi giao tiếp còn hạn hẹp, vốn từ ngữ, vốn sống còn quá ít thì mỗi bài học, mỗi tiết học đối với các em còn rất mới lạ. Chương trình toán lớp 2 là một bộ phận của chương trình toán Tiểu học và là sự tiếp tục của chương trình toán lớp 1. Khối lượng kiến thức ở chương trình mới đòi hỏi học sinh tiếp thu ở mức cao hơn so với chương trình cũ.

Thực tế dạy học môn toán ở trường về phía giáo viên trực tiếp giảng dạy rất nhiệt tình nhưng có thể nói mỗi bài dạy toán là một hệ thống mở nhằm phát huy tối đa khả năng sáng tạo nghệ thuật sư phạm của mỗi giáo viên trong từng giờ dạy. Giáo viên học hỏi nghiên cứu tài liệu nhiều nhưng hiệu quả giờ dạy chưa cao. Bên cạnh đó nhiều học sinh chưa ý thức được việc học là cần thiết, còn lơ là chưa chủ động học tập, do vậy không tiếp thu được lượng kiến thức thầy cô truyền đạt, kể cả kiến thức đơn giản nhất, gây rất nhiều khó khăn cho việc học lên lớp trên. Vậy phải làm thế nào để tất cả học sinh trong lớp đều tích cực học tập, tự giác tiếp thu bài, nắm chắc kiến thức một cách hệ thống, phát huy tốt khả năng của các loại đối tượng học sinh trong lớp nhất là đối với học sinh yếu. Tôi muốn trao đổi với đồng nghiệp biện pháp khắc phục rèn học sinh yếu trong môn toán, đáp ứng yêu cầu dạy theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Sau khi nghiên cứu tìm tòi tôi áp dụng nhiều hình thức tổ chức trong giờ học. Đưa ra nhiều việc làm cụ thể thiết thực phối hợp cùng gia đình nhà trường và xã hội để giáo dục các em học sinh yếu môn toán. Vì thế tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2”.

docx 24 trang Hương Thủy 18/10/2025 150
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh yếu vươn lên trong học tập môn Toán ở lớp 2
c sinh, giáo viên viết lên bảng: 71 – 48 ( theo cột dọc), các chữ số chỉ chục được viết bằng phần màu để các em nhận rằng cần nhớ vào số đó. Sau đó, mời những học sinh yếu nêu miệng cách làm: “1 không trừ được 8, ta lấy 11 trừ 8 bằng 3, viết 3 nhớ 1, 4 thêm 1 bằng 5, 7 trừ 5 bằng 2 viết 2.”
Học sinh dưới lớp nhận xét bổ sung dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Như vậy khi học thực hành làm vào vở, các em đều đặt tính và thực hiện chính xác.
3.6. Biện pháp thứ sáu: Tổ chức cho học sinh yếu, kém học nhóm:
Việc rèn học sinh yếu kém phải tổ chức nhiều hình thức phong phú khác nhau, giáo viên luôn chú ý hoà đồng học sinh cả lớp, luôn động viên, khích lệ kịp thời tránh để các em mặc cảm về mình, không mạnh dạn trước đông người, không dám thể hiện mình trước các bạn. Do vậy cần tổ chức cho các em học tập theo nhóm. Sắp xếp nhóm có cả học sinh khá, giỏi giúp học sinh luôn có ý thức thi đua phần đấu học như bạn luôn lấy gương học tập của các bạn để noi theo.
Ví dụ: Khi dạy bài” Luyện tập” (SGK Toán – Tập 1 – tr28)
Giáo viên chia lớp làm nhóm 4, yêu cầu trong nhóm tự tìm ra cách làm trong thời gian nhất định, nếu bạn chưa tìm ra cách làm thì nhóm sẽ giúp đỡ. Sau khi học sinh hoạt động nhóm xong giáo viên cho học sinh nhận xét mẫu, tự nói cách làm. Yêu cầu các nhóm lên bảng điền kết quả, giáo viên động viên các em học sinh yếu tham gia vào điền kết quả ở những phép cộng đơn giản, vừa sức. Qua hoạt động nhóm, tôi nhận thấy các em đều hứng thú học tập, cố gắng hết mình không để nhóm mình là nhóm làm sai. Do đó bài tập các em làm nhanh và đạt kết quả cao. Với việc rèn học sinh yếu qua học nhóm có thể đưa ra nhiều dạng bài tập khác nhau và nâng dần ở mức độ bài tập từ đơn giản đến phức tạp giúp học sinh nắm chắc bài có hệ thống hơn.
Tổ chức đôi bạn giúp nhau học tập ở lớp cũng như ở nhà. Ở lớp vào những giờ ra chơi các em khá giỏi kiểm tra các bảng cộng, trừ, nhân, chia giảng cho bạn những bài bạn chưa hiểu. 
3.7. Biện pháp thứ bảy: Tổ chức trò chơi cho học sinh yếu trong từng tiết học toán:
Với học sinh Tiểu học, tâm lí lứa tuổi các em học mà chơi, chơi mà học. Chơi là nhu cầu cần thiết đối với các em. Được chơi các em sẽ tham gia hết sức tự giác và chủ động. Khi chơi các em biểu lộ tình cảm rất rõ ràng như niềm vui khi thắng lợi, buồn bã khi thất bại. Vì tập thể mà các em khắc phục khó khăn, phấn đấu hết khả năng để mang lại thắng lợi cho tổ, nhóm trong đó có mình. Đây chính là đặc tính thi đua rất cao của các trò chơi.
Trò chơi học tập làm thay đổi hình thức hoạt động của học sinh, giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách tự giác tích cực, khích lệ học sinh, giúp học sinh mạnh dạn hơn. Do vậy trong quá trình dạy cần tổ chức trò chơi cho học sinh để tất cả các em cùng được tham gia một cách vui vẻ, thoải mái trong tiết học.
Ví dụ: Dạy bài “ Bảng chia 2 – nhằm củng cố phép chia trong bảng chia 2
Trò chơi: “ Cùng leo dốc”
Hai bảng phụ ghi nội dung sau: 
 20 : 2 = 
 16 : 2 = 8 : 2 =
 14 : 2 = 18 : 2 =
 12 : 4 = 2 : 2 =
10 : 2 = 6 : 2 =
Cử hai đội lên tham gia trong đó có học sinh yếu, mỗi đội 5 em, mỗi em làm một phép tính. Mỗi đội xếp thành một hàng. Bạn thứ nhất làm xong đứng về cuối hàng, bạn thứ hai làm tiếp, từ dưới lên, cứ như vậy cho đến hết . Trong khi hai đội làm, dưới lớp cổ vũ các bạn. Đội nào làm đúng và leo lên đỉnh trước đội đó giành chiến thắng.
Qua trò chơi học sinh luôn hứng thú học tập, luôn có sự cố gắng thi đua vươn lên, tiết học nhẹ nhàng mà đạt hiệu quả cao. Ngoài ra trong quá trình giảng dạy có thể thay đổi tên trò chơi khác nhau như: “ Ai nhanh, ai đúng; Truyền điện; Que tính thông minh; Ai nhiều điểm nhất; Tìm lá cho hoa,.” Giúp học sinh nhớ lâu, hiểu sâu kiến thức đã được học, nâng cao dần nhận thức.
Ví dụ: Dạy bài: Luyện tập chung (tr28)
6 + 6
6 + 7
7 + 7
7 + 8
8 + 8
8 + 9

- Tôi đặt tên cho trò chơi là: “ Ai nhanh, ai đúng”, và yêu cầu chơi như sau:
- Tôi yêu cầu các em chuẩn bị lấy các số trong bộ đồ dùng toán lớp 2: 0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9. 
+ Sau đó cho các em biết thể lệ cuộc chơi:
+ Khi cô giáo đọc dến phép tính nào các em sẽ tìm kết quả của phép tính đó.
+ Dùng số trong bộ đồ dùng để báo cáo kết quả của phép tính. Nếu kết quả là số có hai chữ số phải chọn hai chữ số ghép lại.
 + Ai chọn nhanh, đúng giơ lên đầu tiên bạn đó sẽ thắng cuộc chơi.
 + Chú ý khi chơi kết quả phải đúng không lộn số, không giơ ngược.
Ví dụ: 6 + 6 = 12 6 + 7 = 13
+ Mỗi phép tính đúng một giải. Khi kết thúc trò chơi giáo viên trao giải nhất 3 lần hoan hô của cả lớp, giải nhì 2 lần, giải ba 1 lần. 
Qua tiết học có trò chơi mặc dù chỉ diễn ra với thời gian ngắn, nhưng tôi thấy học sinh phấn khởi hứng thú sôi nổi trong tiết học mà kỹ năng tính toán của các em cũng đạt kết quả tốt hơn, bài giảng của tôi nhẹ nhàng và có chất lượng hơn, học sinh thì hứng thú học và hiểu bài sâu, dần nâng cao nhận thức cho các em.
Song đối với những em học yếu kém nếu chỉ dạy bài mới, bài luyện tập . ở lớp thôi chưa đủ, mà mỗi bài giảng mỗi tiết dạy cần có sự hỗ trợ thường xuyên của gia đình cho học sinh để giúp các ôn lại những kiến thức đã học.
3.8. Biện pháp thứ tám: Rèn học sinh yếu qua việc phối hợp với phụ huynh học sinh.
Qua quá trình giảng dạy và thực tế rèn học sinh yếu ở lớp, tôi nhận thấy không những phải dùng nhiều phương pháp giúp đỡ các em học trên lớp còn phải sát sao trong việc hướng dẫn học sinh học tập ở nhà. Ngoài việc kèm cặp trên lớp giáo viên giúp học sinh hiểu cách làm bài để các em hứng thú ôn lại bài ở nhà, giáo viên phải kiểm tra sát sao kết quả học tập của học sinh hôm sau. Bên cạnh đó giáo viên phải ân cần chỉ bảo nhẹ nhàng những chỗ sai các em còn mắc phải, ghi nhận từng bước tiến bộ của học sinh dù là rất nhỏ. Để việc rèn học sinh yếu đạt kết quả cao hơn thì sự kết hợp giữa nhà trường – gia đình là cần thiết và không thể thiếu được. Do vậy về phía giáo viên phải thường xuyên liên lạc về tình hình học tập cũng như trao đổi phương pháp dạy học ở nhà với phụ huynh học sinh để phụ huynh kèm cặp các em giúp các em tiến bộ. 
*Tóm lại: với những biện pháp trên được áp dụng trong các tiết học toán ở lớp 2 và đòi hỏi người giáo viên khi lên lớp không chỉ quan tâm đến một đối tượng học sinh mà mọi đối tượng từ giỏi đến kém giáo viên đều cần phát huy hết khả năng nhận thức của các em, có như vậy các em học tập mới tích cực vì các em luôn thấy khả năng của mình để phấn đấu, để vươn lên.
4. Kết quả 
 Đầu năm học, qua đợt khảo sát chất lượng đầu năm. tôi thấy học sinh của lớp học kết quả còn thấp. Trong các tiết học Toán các em học chưa sôi nổi, kiến thức năm chưa chắc, trình bày bài còn nhiều lúng túng, nhiều học sinh thực hiện làm rất chậm. Sau khi vận dụng kinh nghiệm vào lớp phụ trách, kết quả cho thấy chất lượng học toán của lớp được nâng lên rõ rệt, các em ham học toán, chú ý nghe giảng, hiểu bài sâu hơn, cụ thể tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng thực dạy và lớp đối chứng với đề bài như sau: 
 Qua bài khảo sát tôi thu được kết quả như sau:
Lớp
2E
Điểm
9, 10
7, 8
5, 6
Dưới 5
Sĩ số
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
44
18
41
22
50
4
9
0
0
*Kết quả khảo sát cho thấy lớp 2E tiến bộ hơn.
 	Ở lớp 2E không còn tồn tại học sinh yếu, số học sinh khá, giỏi tăng rõ rệt. Điều đó chứng tỏ rằng phương pháp thử nghiệm” Rèn học sinh yếu trong học Toán lớp 2” mà tôi áp dụng có kết quả tốt. Vì vậy, theo tôi muốn nâng cao chất lượng đồng đều cho học sinh, đáp ứng cuộc vận động: “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” với nội dung không để học sinh ngồi nhầm lớp thì việc rèn học sinh yếu là vấn đề cần thiết ở bậc Tiểu học.
PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua quá trình giảng dạy, nghiên cứu tôi đã rút ra một số kinh nghiệm nhỏ trong việc “Rèn học sinh yếu trong dạy học Toán 2” áp dụng vào lớp tôi trực tiếp giảng dạy. Trên đây là toàn bộ những vấn đề tôi đã nghiên cứu và thực hiện tại trường. Tôi nhận thấy đây là biện pháp có hiệu quả giúp tôi và đồng nghiệp ở trường khắc phục phụ đạo học sinh yếu trong học môn toán.
2. Bài học kinh nghiệm:
Khi nghiên cứu, tìm hiểu rồi tiến hành thực nghiệm: “Rèn học sinh yếu trong dạy Toán 2”, tôi rút ra một số điểm sau: 
 *Giáo viên: 
 	- Trước hết mỗi thầy cô phải có tâm huyết với nghề, hết lòng vì học sinh, nhận thức đúng đắn vị trí, tầm quan trọng trong việc rèn kĩ năng học toán cho học sinh yếu.
- Nắm chắc đối tượng học sinh lớp mình, dạy theo đối tượng học sinh.
- Giáo viên không ngừng học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. áp dụng chuyên đề đổi mới phương pháp giảng dạy, sử dụng linh hoạt các phương pháp phù hợp với đặc điểm học sinh của lớp mình , đặc biệt là học sinh yếu.
- Xác định rõ mục tiêu của tiết dạy để chuẩn bị chu đáo và đầy đủ phương tiện dạy học phục vụ cho bài dạy.
- Biết lựa chọn hệ thống phương pháp và hình thức dạy học phù hợp với nội dung và đối tượng học sinh, tạo hứng thú học tập trong mỗi tiết học.
*Học sinh:
 	- Phải tích cực học tập, chuẩn bị bài chu đáo trước khi đến lớp.
 	- Tích cực tham gia luyện tập, thực hành trong giờ học.
- Cần phát huy tích cực, chủ động, mạnh dạn trong hoạt động học của học sinh.
 	- Chăm chỉ trong học tập, tích cực huy động vốn kiến thức của mình vào quá trình xây dụng kiến thức bài học. 
*Phụ huynh:
 	- Cần quan tâm sát sao tới con em mình.
- Thường xuyên liên lạc với nhà trường, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm để kịp thời nắm bắt tình hình học tập của con em mình.
*Phạm vi áp dụng:
Tôi nghiên cứu và áp dụng những biệt pháp trên vào giảng dạy ở lớp mình. Qua giảng dạy tôi thấy có thể áp dụng kinh nghiệm trên vào việc: “ Rèn học sinh yếu trong học Toán 2” cho học sinh lớp 2.
3. Khuyến nghị:
Việc đổi mới phương pháp dạy học, rèn học sinh yếu trong dạy học toán 2 nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy là một nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết nhằm đáp ứng kịp thời những yêu cầu đổi mới của xã hội, đó là mục tiêu của giáo dục thời đại mới. Để đáp ứng được những điều trên, tôi rất mong sự quan tâm của các cấp lãnh đạo.
*Đối với giáo viên 
Phải năng động sáng tạo nghiên cứu, đầu tư thời gian để tìm ra phương pháp dạy học phù hợp nhất với từng đối tượng học sinh,giúp các em chăm chỉ và tự tin có hứng thú học tập. Hằng ngày kiểm tra đôn đốc và nhắc nhở các em kịp thời. Không nên quát mắng làm các em sợ mất bình tĩnh. Bố trí học sinh yếu kém ngồi ngồi ở vị trí thuận tiện nhất trong lớp để rèn các em học tốt hơn. Có tuyên dương khen thưởng, động viên kịp thời nhằm khích lệ các em có ý thức vươn lên trong học tập.
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng đề tài tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm sau:
+ Giáo viên cần nắm vững nội dung, mục tiêu trương trình.
+ Giáo viên phải thật sự tâm đắc với nghề, có tinh thần và trách nhiệm cao, phải chịu khó kiên nhẫn trong việc uốn nắn HS.
+ Phải luôn tích cực tự bồi dưỡng, sưu tầm trau dồi ở đồng nghiệp và không ngừng học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn. Đặc biệt phải tích cực sáng tạo tìm tòi để thiết kế được một giờ học có nhiều hình thức, phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của HS.
+ Luôn đào sâu suy nghĩ, tìm tòi cái mới để dạy. Phối hợp linh hoạt các phương pháp tổ chức học tập, để tiết học diễn ra nhẹ nhàng thu hút học sinh. 
+ Không nên bằng lòng với kết quả đạt được, nên tìm tòi khám phá, cập nhật thông tin để làm phong phú phương pháp và hình thức dạy học cho mỗi tiết học luôn là điều mới mẻ tạo cho học sinh hứng thú, say mê môn học.
*Đối với nhà trường 
Tổ chức các cuộc hội thảo, chuyên đề về "rèn học sinh yếu” .Trong năm học nên tổ chức cuộc thi có phần thưởng động viên đối với giáo viên và học sinh đạt kết quả tốt trong cuộc thi .
*Đối với gia đình 
Phải thường xuyên quan tâm, chăm sóc các em cả về trí tuệ lẫn thể chất. Hằng ngày nên bớt chút thời gian kèm cặp các em học tập, trang bị cho các em đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Động viên con em kịp thời đúng lúc khi con có sự tiến bộ trong học tập. Từ đó giúp các em thích học hơn và có ý thức phấn đấu hơn nữa.
Trên đây là kết quả của sự nghiên cứu và tìm hiểu khoa học đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy thực tế ở trường Tiểu học. Với sự cố gắng luôn hướng tới mục đích đề ra bằng tất cả khả năng của mình nhưng do thời gian có hạn, năng lực còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong sự đóng góp ý kiến của các cấp để kinh nghiệm của tôi được đầy đủ, trọn vẹn hơn, có giá trị thực tiễn cao hơn nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng cuộc vận động của ngành.
 Tôi xin trân trọng cảm ơn!

 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết không sao chép nội dung của người khác.
Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2023
Người viết
Lê Diệu Linh
Họ và tên:.
Lớp 2E
ĐỀ KIỂM TRA – MÔN TOÁN (lần 1)
(Thời gian 40 phút)
Câu1: (1 điểm) Số?
79,  ; 81; . ; .. ; 86;  ; 88;  90.
Câu2: (1 điểm)
a, Khoanh vào số lớn nhất: 65, 32, 54, 79, 45, 69.
b, Khoanh vào số bé nhất: 76, 48, 21, 99, 82, 19.
Câu3: (2 điểm) Đặt tính rồi tính:
50 – 30 52 + 36 98 - 54 71 + 7
Câu 4: (1 điểm) Tính:
12 + 3 + 4 = 25 + 14 + 0 =
18 – 3 – 5 = 99 – 62 – 32 = 
Câu 5: (1 điểm) Đúng ghi Đ, sai ghi S vào ô trống:
17 + 22 > 39 30 + 20 = 50 – 0 
85 – 44 < 42 16 + 3 < 19 – 3 
Câu 6: (2 điểm) Cây xoài nhà em có 45 quả. Mẹ đã ngắt 15 quả mang bán. Hỏi trên cây xoài còn lại bao nhiêu quả?
Câu 7: (1 điểm): Hình vẽ bên:
a, Có .. hình vuông.
b, Có .. hình tam giác
Họ và tên:.
Lớp 2E 
ĐỀ KIỂM TRA – MÔN TOÁN (lần 2)
I . TRẮC NGHIỆM: Khoanh vào chữ cái trước câu trả lời đúng: 
Câu 1. 
a) Số gồm có 4 trăm 0 chục 7 đơn vị là số :  
A. 704
B. 407
C. 47
 b) Giá trị của chữ số 6 trong số 867 là :   
A. 6
B. 60
C. 600
Câu 2. Trong các số 912; 199; 129; 921 số bé nhất là : 
A. 912 B. 199 C. 921 D. 129
Câu 3. Điền số thích hợp vào chỗ chấm: 
2000m = ..km 3m5dm = dm
 Câu 4. Điền dấu (, =) thích hợp vào chỗ chấm: 
235 + 140 .......... 687 - 303
A.             C. =            D. +
Câu 5. 
Hình bên có số hình tứ giác là: 
 A. 1 B. 2 C. 3 D. 4 
II. TỰ LUẬN : 
Câu 6. Tính nhẩm: 
2 x 9 = 	 10 : 2 =
5 x 1 = 	 25 : 5 =
Câu 7. Đặt tính rồi tính: 
514 + 302
 678 - 437







Câu 8. Có một số lít dầu đựng trong 6 can, mỗi can 5l. Hỏi có tất cả bao nhiêu lít dầu?
Bài giải
................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Câu 9. Trong hình bên có:
. khối trụ;
. khối cầu;
. khối hộp chữ nhật.
TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
1. Phương pháp dạy học môn Toán ở Tiểu học.
2. Tạp chí giáo dục Tiểu học.
3. SGK Toán lớp 2 (Tập 1, 2 – Bộ Cánh diều) 
4. SGV Toán lớp 2 (Tập 1, 2 – Bộ Cánh diều) 
5. 200 câu hỏi đáp về dạy Toán ở tiểu học, NXB Giáo dục
6. Đánh giá kết quả học Toán 2 – NXB Giáo dục.
7. Các chuyên đề Giáo dục Tiểu học của Vụ giáo dục Tiểu học.
8. Phương pháp dạy Toán ở Tiểu học, NXB Giáo dục

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_yeu_vuo.docx
  • docx1. BÌA + MỤC LỤC.docx
  • doc2. ĐƠN SKKN da sua.doc
  • docx3. PHIẾU NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ SKKN.docx