Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Toán 4 theo hướng phát triển năng lực
1. Lời giới thiệu
Giáo dục Tiểu học là bậc học đầu tiên, đặt nền móng cho các bậc học sau. Hiện nay, việc nâng cao chất lượng dạy và học Tiểu học là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội.
Giáo dục Tiểu học ở nước ta đang thực hiện đồng bộ những đổi mới mang tính toàn diện, góp phần phổ cập giáo dục có chất lượng. Trong những đổi mới về giáo dục và đào tạo thì đổi mới về phương pháp dạy học có vị trí đặc biệt quan trọng, vì hoạt động dạy học là hoạt động chủ yếu ở trường học, góp phần đào tạo những con người “ lao động tự chủ và sáng tạo” có khả năng thích ứng với những đổi mới diễn ra hàng ngày. Trong các môn học ở tiểu học thì môn Toán có vai trò vô cùng quan trọng. Toán là bộ môn khoa học đòi hỏi sự chính xác cao. Đặc biệt người học toán cần có kĩ năng làm toán tốt thì mới đem lại kết quả cao trong học tập. Mặt khác, học giỏi toán cũng là công cụ cần thiết để học các môn học khác cũng như nhận thức thế giới xung quanh và thực tiễn một cách có hiệu quả.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy học môn Toán 4 theo hướng phát triển năng lực

o học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Trong quá trình dạy học toán, tôi dựa theo nội dung của từng bài, từng mạch kiến thức và điều kiện thời gian trong mỗi tiết học để thiết kế trò chơi sao cho phù hợp. Trò chơi học tập có thể tổ chức ở cả 4 bước lên lớp. Ví dụ 1: Khi dạy về phép tính cộng trừ với các số tự nhiên (Chương 2 Toán 4). Theo các phương pháp dạy học thông thường, giáo viên sẽ cho học sinh làm, giải quyết bài tập theo hình thức: làm việc cá nhân vào vở ( nháp), hoạt động nhóm, phiếu học tập,Nhưng tôi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi tiếp sức như sau: - Tên trò chơi: Nói đúng mật khẩu - Mục đích: Luyện nhẩm nhanh kết quả một số phép tính cộng, trừ với các số tự nhiên. - Chuẩn bị: + GV soạn trước một số phép tính, chẳng hạn: 4682 + 2305; 2968 + 6524; 48600 – 9455; 80000 – 45673; có kèm theo đáp án. Số phép tính bằng số học sinh tham gia chơi và được phô tô thành 2 hoặc 4 bản, chỉ giao cho các HS được chọn làm “ lính gác”. - Tổ chức trò chơi: Tùy theo lớp có một cửa hay hai cửa ra vào mà Gv chọn 2 hoặc 4 HS làm “lính gác” ( mỗi lính gác được phát 1 bản đề cùng đáp án và phải giữ bí mật). Số HS còn lại ra khỏi lớp và xếp thành hàng dọc trước các cửa, chuẩn bị vào lớp. Ở mỗi cửa có hai lính gác: lính gác 1 đọc phép tính, lính gác 2 căn cứ vào câu trả lời và đáp án có sẵn để quyết định hô: “ Đúng mật khẩu, được vào” hay “ sai mật khẩu, không được vào”. Chẳng hạn, đến lượt bạn Lan tiến đến trước cửa. Lính gác 1 hô: “ 4682 + 2305”. Bạn Lan đáp: “ 7987”. Lính gác 2 hô: “ Đúng mật khẩu, được vào” và hai lính gác đứng tránh ra cho bạn vào. Nếu ai trả lời sai đáp án thì lính gác 2 hô: “ Sai mật khẩu, không được vào”, bạn đó phải quay trở lại xếp ở cuối hàng chờ đến lượt sau. Cứ tiếp tục như vậy cho đến khi tất cả các bạn được vào lớp. - Phát triển trò chơi: Có thể thay các phép tính cộng, trừ bằng các dạng toán đổi đơn vị đo độ dài hay các bài toán tính chu vi, diện tích các hình. Đây là một trò chơi tương đối đơn giản, dễ chơi lại có tác dụng củng cố kiến thức cho học sinh, phù hợp với nội dung dạy học. Tuy nhiên trong khi chơi, học sinh dễ lộn xộn gây mất trật tự. Giáo viên cần có khả năng tổ chức, bao quát lớp tốt để ổn định lớp học và để trò chơi đạt hiệu quả như mong muốn. - Ngoài ra, với bài này, chúng ta có thể sử dụng một số trò chơi khác như: Cuộc truy tìm báu vật; Cột số kì diệu; Đội nào tính giỏi hơn; Săn lùng số X; Cướp cờ; Trò chơi học tập được sử dụng như một phương pháp tổ chức cho học sinh khám phá và chiếm lĩnh nội dung học tập hoặc thực hành, luyện tập một kĩ năng nào đó trong chương trình môn học. Đây là một phương pháp có tác dụng hòa đồng sâu rộng và thu hút mức độ tập trung của học sinh mà ít có phương pháp nào sánh kịp. Đổi mới phương pháp dạy học không chỉ đổi mới về nội dung còn đổi mới về hình thức tổ chức học tập. 7.3.3. Đổi mới hình thức tổ chức dạy học. Đặc trưng của hình thức dạy học môn Toán là dạy học trong lớp theo thời gian quy định, theo nội dung có sẵn trong sách giáo khoa. Khi sử dụng hình thức dạy học này tạo ra sự nặng nề đơn điệu, hạn chế sự nhận thức tiếp thu kiến thức của học sinh. Để khắc phục hạn chế đó, tôi đã mạnh dạn thực hiện một số hình thức dạy học môn Toán lớp 4 như sau: a) Học trong lớp : Tuỳ theo nội dung và điều kiện học tập, giáo viên có thể tiến hành dạy học ở trong lớp hoặc ngoài hiện trường. Có 3 cách tổ chức sau đây: Một là, học cá nhân: Tổ chức cho học sinh học cá nhân sẽ tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực học sinh trong học toán. Viêc học cá nhân chỉ đạt hiệu quả khi mỗi học sinh thực sự làm việc theo gợi ý hướng dẫn của giáo viên trên phiếu học tập. Giáo viên có thể trực tiếp kiểm tra từng em, giúp từng cá nhân thực hiện nhiệm vụ . Hai là, học nhóm Học nhóm sẽ tạo không khí hợp tác học tập, học tập có tổ chức, có trách nhiệm giữa các thành viên trong một nhóm học sinh. Khi học nhóm mỗi học sinh phải phát biểu ý kiến của mình, phải thực hiện nhiệm vụ cụ thể để hoàn thành nhiệm vụ chung của nhóm. Tuỳ nội dung của từng bài mà giáo viên quyết định đến số học sinh ở mỗi nhóm. Khi cử nhóm trưởng và thư ký nên luân phiên để em nào cũng có cơ hội tập điều hành công việc trong nhóm. Điều quan trọng khi tổ chức học nhóm là nhiệm vụ của mỗi nhóm phải rõ ràng cụ thể. Trong khi học sinh làm việc, giáo viên theo dõi giúp đỡ các em. Ba là, học toàn lớp. Khi học toàn lớp giáo viên tổ chức cho các em cùng trao đổi ý kiến, tổ chức hướng dẫn để cùng học sinh tham gia giải quyết một bài toán, cách trình bày một lời giải, cùng đặt vấn đề mới nảy sinh ( dưới dạng câu hỏi ) trong quá trình học tập. Khi giáo viên nói nên ngắn gọn, rõ ràng, đủ thông tin với tốc độ vừa phải. Khi sủ dụng đồ dùng dạy học ( hình ảnh, sơ đồ, mẫu vật) phải thường xuyên gợi ý để thu thập các thông tin ngược từ học sinh để điều chỉnh. b) Học ngoài lớp: Dạy ngoài hiện trường giúp học sinh quan sát được trực tiếp, mắt thấy tai nghe một số đối tượng học tập rất sinh động mà không có loại đồ dùng dạy học nào hoặc lời miêu tả củaâối viên có thể so sánh được về mặt trực quan. Học sinh có thể được thực hiện hàng ngày trên thực tế, môi trường học tập thay đổi giúp cho học sinh có nhận thức nhanh và ghi nhớ sâu hơn, ví dụ ở các bài: Đo độ dài, tỉ lệ xích, tính chu vi diện tích các hình. c) Sử dụng phiếu học tập: Phiếu học tập là một trong những công cụ cho phép cá thể hoá hoạt động học tập của học sinh trong học Toán, tiết kiệm thời gian trong việc tổ chức các hoạt động học tập đồng thời là công cụ hữu ích trong việc thu thập và xử lý thông tin ngược. Phiếu học tập được nhiều ở tất cả các bài, các mạch kiến thức. Khi soạn thảo và sử dụng phiếu học tập cần lưu ý : Phiếu học tập một mặt phải cung cấp được những kiến thức, kỹ năng cơ bản, trọng tâm được quy định trong chương trình và sách giáo khoa, trong đó xác định những thành tố đơn vị và trật tự thực hiện chúng mặt khác phải đảm bảo cả việc kiểm tra được kiến thức kỹ năng đó. Phiếu học tập cần vừa sức với số đông học sinh nhưng cũng phải đảm bảo kích hích được những hoạt động tìm tòi mang đặc tính của dạng hoạt động biến đổi, sáng tạo. Các yêu cầu nêu trong phíếu học tập phải được diễn đạt một cách chặt chẽ, rõ ràng, dễ hiểu chính xác. 7.3.4. Tăng cường sử dụng phương tiện dạy học và công nghệ thông tin hợp lý hỗ trợ dạy học Một trong những định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học, điển hình là sử dụng giáo án điện tử. Ngày nay, giáo án điện tử được sử dụng rất phổ biến bởi những tiện ích mà nó đem lại nhưng làm thế nào để mỗi giáo án điện tử có chất lượng, thực sự phát huy được hiệu quả, góp phần tạo hứng thú cho học sinh trong mỗi giờ học mà không gây sự nhàm chán thì cần sự sáng tạo, sự đầu tư nghiêm túc của giáo viên. Bởi vậy, tôi luôn đầu tư thời gian, công sức, trí tuệ cho mỗi bài soạn, sử dụng linh hoạt và phong phú các hiệu ứng. Đặc biệt sách giáo khoa toán lớp 4 có rất ít kênh hình, chủ yếu là kênh chữ nên việc thiết kế giáo án điện tử với hiệu ứng đổi màu chữ, gạch chân dưới yêu cầu của đề bài sẽ giúp học sinh nhớ lâu hơn. Hoặc khi tóm tắt bài toán có thể dùng hình ảnh phù hợp để minh họa cho đề bài. Những bài toán về đếm hình được đưa lên màn hình lớn và tạo hiệu ứng tách, ghép hình sẽ giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn. Khi tổ chức trò chơi có thể thêm âm thanh như tiếng chuông, tiếng vỗ tay,để thu hút sự chú ý của học sinh. Bên cạnh đó, tôi còn ứng dụng CNTT vào việc hỗ trợ cho các em còn hạn chế về nhận thức. Tôi lập nhóm học trực tuyến để bổ trợ kiến thức toán cho các em theo hình thức nhẹ nhàng, học mà chơi, chơi mà học. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, với những áp lực từ công việc, từ cuộc sống đã khiến nhiều phụ huynh rất ít thời gian ở bên con, nhiều đứa trẻ có thể bị rơi vào trạng thái cô đơn trong chính ngôi nhà của mình nên việc tạo sân chơi lành mạnh cho trẻ là vô cùng cần thiết, trong đó có một phần trách nhiệm của các thầy cô. Bởi vậy, tôi thường tạo những sân chơi cho các em thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là những trò chơi toán học. Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học, nhằm tăng cường tính trực quan và thí nghiệm, thực hành trong dạy học. Hiện nay, việc trang bị các phương tiện dạy học mới cho các trường phổ thông từng bước được tăng cường. Tuy nhiên các phương tiện dạy học tự làm của giáo viên luôn có ý nghĩa quan trọng, cần được phát huy. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học hiện đại. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các phần mềm dạy học cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning), mạng trường học kết nối, Trường học lớn(BigSchool) Việc ứng dụng CNTT không chỉ góp phần đổi mới phương pháp dạy học mà còn làm cho tình cảm giữa cô với trò, trò với trò ngày thêm gắn kết . Không chỉ những thời gian trên lớp mà ngay cả khi ở nhà tôi đã thực sự trở thành người mẹ thứ hai của các em. 7.3.5.Thường xuyên động viên, khích lệ học sinh kịp thời Khen ngợi là một phần thưởng tinh thần to lớn đối với học sinh tiểu học. Lời khen giúp các em tạo động lực và cải thiện kết quả học tập. Hiện nay, cả giáo viên và phụ huynh đều đánh giá cao sự khích lệ, động viên học sinh của thông tư 22. Việc động viên, khích lệ học sinh kịp thời sẽ giúp học sinh tự tin, nhân cách của học sinh ngày càng được kiện toàn, hành vi tích cực sẽ được phát huy. Ngược lại, phê bình, trách mắng, chỉ trích làm cho lòng tự trọng của trẻ bị tổn thương. Chính vì vậy hàng ngày thay vì trách phạt và chê bai học sinh tôi sẽ dành cho các em những lời khen ngợi trân thành khi các em có sự tiến bộ. Đối với những em học toán chưa tốt, bài làm còn mắc lỗi, tôi gợi ý để các em tìm ra lỗi sai trong bài và sửa lại dưới sự dẫn dắt của cô giáo. Ngoài nhận xét bằng lời, tôi dùng cử chỉ, ánh mắt, nụ cười hay những cái xoa đầu để khích lệ các em. Những em nào tiến bộ tôi có thể thưởng bông hoa, sticker hay thư khen cuối tuần. Khi các em được nhận những lời khen, thư khen của cô các em cảm thấy rất vui và hạnh phúc. 7.4. Thảo luận, đánh giá kết quả thu được 7.4.1. Tính mới , tính sáng tạo Đổi mới phương pháp day học là định hướng chung của toàn ngành giáo dục. Thế nhưng việc đổi mới phương pháp dạy học trước đó còn được hiểu ở phạm trù hẹp và việc đổi mới chưa thực sự cụ thể. Sáng kiến “Đổi mới phương pháp dạy học toán cho học sinh lớp 4 theo hướng phát triển năng lực” đã được tôi tác động đổi mới vào cả 5 thành tố của quá trình dạy học để phát triển năng lực toán cho các em. Đó là tác động vào mục đích dạy học; nội dung dạy học; phương pháp và hình thức tổ chức; phương tiện và thiết bị dạy học; kiểm tra đánh giá kết quả học tập. Khi vận dụng sáng kiến tôi đã linh hoạt sử dụng các phương pháp, hình thức tổ chức day học toán tích cực nhất để áp dụng phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh của lớp. Ngoài ra, tôi còn áp dụng giải pháp cho nhiều đối tượng học sinh của lớp để có kết quả khách quan và tính ứng dụng cao. Đó cũng chính là tính mới của giái pháp so với các giải pháp tương tự mà tôi biết. 7.4.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến 7.4.2.1 Khả năng áp dụng Sáng kiến” Đổi mới phương pháp dạy học môn toán 4 theo hướng phát triển năng lực.” đã được tôi áp dụng trong dạy học môn toán cho học sinh lớp 4. Qua quá trình nghiên cứu và thực tế áp dụng, tôi thấy đây là một giải pháp phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực học sinh tiểu học. Các giải pháp phù hợp với mọi đối tượng học sinh và có thể áp dụng để phát triển năng lực toán cho học sinh các khối lớp trong bậc tiểu học. Bản thân tôi đánh giá những giải pháp không cần tốn quá nhiều chi phí đầu tư, việc thực hiện chủ yếu thông qua sự chủ động của giáo viên và học sinh nên tôi tin tưởng đạt được hiệu quả cao khi áp dụng ở bất cứ trường học trên địa bàn nào. 7.4.2.2. Khả năng mang lại lợi ích thiết thực Sau hơn 1 học kì áp dụng sáng kiến” ” Đổi mới phương pháp dạy học môn toán 4 theo hướng phát triển năng lực.” tôi đã có thêm kinh nghiệm tạo hứng thú, nâng cao chất lượng dạy và học môn Toán cho học sinh. - Các tiết học toán của lớp tôi diễn ra nhẹ nhàng, sôi nổi, hấp dẫn góp phần xây dựng lên những giờ học hạnh phúc. - Nhiều em mạnh dạn, tự tin, tích cực tham gia vào các hoạt động và hoàn thành bài tập với độ chính xác cao. - Kết quả học tập môn Toán cuối học kì II tiến bộ rõ rệt. Tên lớp Sĩ số Tốt Đạt Chưa đạt SL % SL % SL % 4A 33 9 27,2 24 72,8 0 0 Ngoài ra, trong lớp còn có một em đạt giải khuyến khích cập huyện khi tham gia kì thi giao lưu học sinh năng khiếu do huyện tổ chức. Nhìn vào những kết quả đạt được, tôi nghĩ mình đã tìm được hướng đi đúng, cách làm phù hợp để phát triển năng lực toán cho học sinh lớp 4. 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không có 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Sáng kiến này có thể áp dụng rộng rãi trong điều kiện hiện tại của các trường tiểu học trên địa bàn huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Sáng kiến đã áp dụng lần đầu tại trường tiểu học Lãng Công, huyện Sông Lô. Chúng tôi đã thu được kết quả khả quan. Lớp học có chất lượng đại trà tiến bộ hơn đầu năm rất nhiều, 100% các em được đánh giá ở mức hoàn thành môn học trở lên. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Sáng kiến này được đội ngũ giáo viên trường tiểu học Lãng Công áp dụng lần đầu năm học 2022 - 2023. Kết quả cho thấy, tổ chuyên môn và các giáo viên đánh giá cao tính hiệu quả, tính khả thi của sáng kiến. Lợi ích chính thu được sau khi áp dụng sáng kiến là đội ngũ giáo viên nhà trường đã nâng cao năng lực thiết kế bài học theo hướng phát triển năng lực của học sinh. So với cách thiết kế bài học truyền thống, giáo viên đã khắc phục hạn chế của lối dạy học truyền thụ một chiều. Quá trình dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Các em được tạo cơ hội để bộc lộ và phát triển các năng lực, phẩm chất theo chương trình GDPT 2018. 11. Danh sách những tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng giải pháp lần đầu (nếu có): Số TT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng giải pháp 1 Lương Thị Vọng Trường TH Lãng Công Dạy học môn Toán lớp 4 2 Bùi Thị Tùng Trường TH Lãng Công Dạy học môn Toán lớp 4 ......., ngày.....tháng......năm...... Thủ trưởng đơn vị/ Chính quyền địa phương (Ký tên, đóng dấu) ........, ngày.....tháng......năm...... CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CẤP CƠ SỞ (Ký tên, đóng dấu) ........, ngày.....tháng......năm...... Tác giả sáng kiến (Ký, ghi rõ họ tên)
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_doi_moi_phuong_phap_d.docx