Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán
7.1. THỰC TRẠNG:
- Cách dạy toán 4 đặc biệt là dạy các bài toán có lời văn tương đối khó thậm chí còn có thể coi là rất khó với học sinh tiểu học ngay cả những bài toán ở Mức độ 1 (M1) đến những bài toán ở Mức 3 (M3), Mức 4 (M4). Đây là một nội dung mà người dạy và người học dễ lầm tưởng là mình đã hiểu kĩ nội dung nhưng thực tế người học dễ mắc những sai lầm khi giải toán nhất.
- Trên thực tế, ở lớp 4 và thậm chí cả lớp 5 có khá nhiều bài toán về trung bình cộng và tổng - hiệu. Thế nhưng sách giáo khoa lại không phân chia theo từng mức độ và đối tượng học sinh một cách cụ thể. Chính điều này khiến cho những học sinh trung bình và thậm chí học sinh khá, giỏi gặp nhiều bối rối khi giải toán.
- Khi Thông tư 22 được triển khai với 4 mức độ và chia ra phần trắc nghiệm khoảng 30%- 40%, tự luận ứng với khoảng 60% - 70%. Trong đó, các bài toán có lời văn có yếu tố quan trọng với học sinh đặc biệt là học sinh trung bình.
- Mặt khác, giải các bài toán là một dạng toán hay lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bên cạnh các bài toán áp dụng trực tiếp công thức còn có nhiều bài đòi hỏi tính suy luận lô gic. Để giải được các bài toán này, đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng tổng hợp rất nhiều kiến thức về số học, biết sử dụng các kiến thức đó một cách sáng tạo. Có thể nói đây là một dạng bài tập có tác dụng rất tốt trong việc ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về môn Toán.
- Cách dạy toán 4 đặc biệt là dạy các bài toán có lời văn tương đối khó thậm chí còn có thể coi là rất khó với học sinh tiểu học ngay cả những bài toán ở Mức độ 1 (M1) đến những bài toán ở Mức 3 (M3), Mức 4 (M4). Đây là một nội dung mà người dạy và người học dễ lầm tưởng là mình đã hiểu kĩ nội dung nhưng thực tế người học dễ mắc những sai lầm khi giải toán nhất.
- Trên thực tế, ở lớp 4 và thậm chí cả lớp 5 có khá nhiều bài toán về trung bình cộng và tổng - hiệu. Thế nhưng sách giáo khoa lại không phân chia theo từng mức độ và đối tượng học sinh một cách cụ thể. Chính điều này khiến cho những học sinh trung bình và thậm chí học sinh khá, giỏi gặp nhiều bối rối khi giải toán.
- Khi Thông tư 22 được triển khai với 4 mức độ và chia ra phần trắc nghiệm khoảng 30%- 40%, tự luận ứng với khoảng 60% - 70%. Trong đó, các bài toán có lời văn có yếu tố quan trọng với học sinh đặc biệt là học sinh trung bình.
- Mặt khác, giải các bài toán là một dạng toán hay lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Bên cạnh các bài toán áp dụng trực tiếp công thức còn có nhiều bài đòi hỏi tính suy luận lô gic. Để giải được các bài toán này, đòi hỏi học sinh phải biết vận dụng tổng hợp rất nhiều kiến thức về số học, biết sử dụng các kiến thức đó một cách sáng tạo. Có thể nói đây là một dạng bài tập có tác dụng rất tốt trong việc ôn tập, củng cố kiến thức cho học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về môn Toán.
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán

212 (tấn) Đáp số: 212 tấn c. Dạng toán về trung bình cộng M3 và M4 Bài toán 12: Có 4 cái ô tô. Xe thứ nhất chở 6 tấn, xe thứ hai chở 12 tấn. Xe thứ ba chở bằng trung bình công của xe thứ nhất và xe thứ hai. Xe thứ thứ tư chở được hơn trung bình của ba xe trên 3 tấn. Hỏi xe thứ tư chở được bao nhiêu tấn? Học sinh thường giải như sau: Xe thứ ba chở được: (6+12) : 2= 9 (tấn) Trung bình cộng của 4 xe là: (6 + 12 + 9) : 4 =274 (tấn) Xe thứ tư chở được: 274 + 3 = 394 (tấn) Đáp số: 394 tấn Nguyên nhân Sở dĩ dẫn đến cách làm trên thường là do học sinh làm ẩu khi chưa tìm trung bình cộng của ba xe. Biện pháp Tôi thường phải yêu cầu học sinh đọc kĩ và trình bày lời giải một cách cặn kẽ trước khi viết vào bài. Lời giải Xe thứ ba chở được: ( 6 + 12 ) : 2= 9 (tấn) Trung bình cộng của ba xe là: ( 6 + 12 + 9 ) : 3 = 9 (tấn) Xe thứ tư chở được là: 9 + 3 = 12 (tấn) Đáp số: 12 tấn Bài toán 13: Có 4 cái ô tô. Xe thứ nhất chở 8 tấn, xe thứ hai chở 12 tấn. Xe thứ ba chở bằng trung bình công của xe thứ nhất và xe thứ hai. Xe thứ thứ tư chở được hơn trung bình của cả bốn xe là 3 tấn. Hỏi xe thứ tư chở được bao nhiêu tấn? (M3) (Nguồn Vio toán 4) Lời giải HS thường ngộ nhận bài này giống hệt bài trên nên cũng giải y như bài mẫu. Cụ thể: Xe thứ ba chở được: (8 + 12) : 2 = 10 (tấn) Trung bình cộng của ba xe là: (8 + 10 + 12) : 3 = 10 (tấn) Xe thứ tư chở được: 10 + 3 = 13 (tấn) Đáp số: 13 tấn Nguyên nhân Sở dĩ dẫn đến cách làm trên thường là do học sinh làm ẩu khi chưa đọc kĩ đầu bài. Mấu chốt của vấn đề là xe thứ tư hơn trung bình cộng của cả 4 xe là 3 tấn. Điều này sẽ quyết định khi tìm trung bình cộng của 4 số phải lấy tổng của ba số cộng với phần hơn và chia 3 Biện pháp Tôi thường phải yêu cầu học sinh đọc kĩ, gạch chân dưới các từ ngữ quan trong và nếu cần thì vẽ sơ đồ tìm lời giải. Dạng bài này phải chia làm 4 bước. - Bước 1: Tìm số tấn xe thứ ba - Bước 2: tìm tổng của ba xe - Bước 3: Tìm trung bình cộng 4 xe (Có thể vẽ sơ đồ) TBC= (tổng + phần hơn): 3 - Bước 4: Tìm xe thứ tư. Lời giải Xe thứ ba chở được: (8+12) : 2 = 10 (tấn) Tổng ba xe chở được là: 8 + 12 + 10 = 30 (tấn) Trung bình mỗi xe chở được là: (30 + 3) : 3 = 11 (tấn) Xe thứ tư chở được là: 11 + 3 = 14 (tấn) Đáp số: 14 tấn Bài 13 (bổ sung 1): Có 4 cái ô tô. Xe thứ nhất chở 8 tấn, xe thứ hai chở 12 tấn. Xe thứ ba chở bằng trung bình cộng của xe thứ nhất và xe thứ hai. Xe thứ thứ tư chở được ít hơn trung bình của cả bốn xe là 3 tấn. Hỏi xe thứ tư chở được bao nhiêu tấn? (M3) (Nguồn Vio toán 4) Bài này khác bài trên ở chi tiết ít hơn trung bình cộng của 4 xe là 3 tấn. Do đó ta có lời giải: Lời giải Xe thứ ba chở được: (8 + 12) : 2 = 10 (tấn) Tổng ba xe chở được là: 8 + 12 + 10 = 30 (tấn) Trung bình mỗi xe chở được là: (30 - 3) : 3 = 9 (tấn) Xe thứ tư chở được là: 9 – 3 = 6 (tấn) Đáp số: 6 tấn Bài 13 (bổ sung 2): Cho hai số là 43 và 25, số thứ ba bằng trung bình cộng của hai phân số đó. Số thứ tư hơn trung bình cộng của 4 số là 215 . Tìm số thứ tư. (M4) Lời giải và những lỗi sai hay mắc. Số thứ ba là: ( 43 + 25 ) : 2 = 1315 Trung bình cộng của 4 số là: (4 3 + 25+1315+215) :3= 4145 Số thứ tư là: 4145 + 215 = 4745 Đáp số: 4745 Nguyên nhân Nguyên nhân chủ yếu là do học sinh chỉ quen làm các bài toán về trung bình cộng kết hợp với số tự nhiên. Nay gặp phân số các em sẽ rối. Dẫn đến làm sai. Biện pháp Tôi thường phải hướng dẫn lại và nhắc lại bài toán số 12, để HS làm lại. Lời giải Số thứ ba là: ( 43 + 25 ) : 2 = 1315 Tổng của ba số đầu là: 43 + 2/5 +1315 = 135 Trung bình cộng của 4 số là: (135+215 ) : 3 = 4145 Số thứ tư là: 4145 +2 15 = 4745 Đáp số: 4745 Bài toán 14: Tìm trung bình cộng của ba số, biết rằng: - Tổng hai số đầu là 56 - Tổng hai số cuối là 1712 - Tổng số đầu số cuối là 54 Lời giải Khi gặp dạng bài này học sinh thường giải như sau: Trung bình cộng của ba số là: (56+1712+54) :3 = 8 9 Nguyên nhân Chủ yếu do học sinh đọc ẩu và dạng toán khác khá xa với những bài toàn đại trà. Biện pháp Tôi yêu cầu các em xét xem chúng xuất hiện bao nhiêu lần. Từ đó tìm tổng tất cả dựa trên cái đã cho. Lời giải Do mỗi số đều xuất hiện hai lần nên tổng hai lần của ba số là: 56+1712+54=72 Tổng ba số là: 72 :2 = 74 Trung bình của ba số là: 74 :3=712 Đáp số: 712 Bài toán 15 (M3) Trung bình cộng của 5 số lẻ liên tiếp là 51. Tìm số bé nhất. Những cách giải dài và chưa đúng Hầu hết học sinh khi làm bài này hoặc làm mát nhiều thời gian hoặc làm nhanh nhưng chưa đúng. Cụ thể Tổng của 5 số là: 51 × 5 = 255 Số bé nhất là: (255 - 11) : 2 = 127 Nguyên nhân Chủ yếu do học sinh máy móc thường liên hệ đế bài toán tổng hiệu và nhận định sai. Biện pháp Tôi thường cho vẽ sơ đồ, tuy nhiên có một cách xác định nhanh. Đó là trung bình cộng của dãy số cách đều (số lẻ ) - bài này thì chính là số nằm chính giữa. Vậy số bé nhất là: 51 – 2 – 2 = 47 Đáp số: 47 Bài toán 16: (M3) Tìm trung bình của dãy số: 1; 2; 3;...; 2021. (Nguồn Vio 4) Gặp dạng bài này học sinh quá bối rối. Hầu hết các em chỉ tính mò. Hướng dẫn Tôi thường hướng dẫn học sinh trung bình cộng của một dãy số cách đều là số nằm chính giữa. Lời giải Trung bình của dãy số trên là: (1 + 2021) : 2 = 1011 Đáp số: 1011 Bài toán 17: (M4) Tìm trung bình cộng của tất cả các số có 3 chữ số khác nhau được lập từ các số 3;4;5. Lời giải của học sinh Các số đó là: 345;354;435;453;543;534 Trung bình cộng của các số đó là: (345 + 354 + 435 + 453 + 543 + 534) : 6 = 444 Đáp số: 444 Nguyên nhân Chủ yếu do học sinh máy móc thường liệt kê và tính mất khá nhiều thời gian đôi khi vẫn không đúng. Biện pháp Tôi cũng vẫn cho HS liệt kê các số và nhận xét mỗi chữ số xuất hiện ở mỗi hàng bao nhiêu lần. Từ đó đưa ra các giải ngắn hơn. Lời giải Các số đó là: 345;354;435;453;543;534 Nhận xét mỗi số xuất hiện ở hàng trăm, hàng chục, hàng đơn vị hai lầ do đó ta có tổng của các đó là: 333 × 2 + 444 ×2+555×2= (333 + 444 + 555) ×2 Vậy có thể nhận ra nhanh trung bình cộng của 6 số trên là 444 Đáp số: 444 Bài toán 18: (M4) Tìm trung bình cộng của tất các số có hai chữ số chia hết cho 6. Giải Đây là một dạng bài khá quen thuộc nhưng khi làm học snh thường loay hoay mất khá nhiều thời gian. Và có không tìm được lối ra. Nguyên nhân: Chủ yếu do học sinh thường hiểu vấn đề máy móc và chỉ biết tính dựa trên những con số cụ thể. Khi làm bài này, các em thường liệt kê và tính mất khá nhiều thời gian đôi khi vẫn không đúng. Biện pháp: Tôi cũng vẫn cho HS xác định số có hai chữ số đầu tiên chia hết cho 6 là 12, số cuối cùng chia hết cho 6 có hai chữ số là 96. Lời giải Ta có dãy số có hai chữ số chia hết cho 6 là: 12; 18;...; 96 Trung bình của dãy số là: (96 + 12) : 2 = 54 Đáp số: 54 7.2.3. PHƯƠNG PHÁP CHUNG: Trải nghiệm Dự đoán Kiểm nghiệm lại Điều chỉnh Hình thành Kiến thức mới Vận dụng (Thực hành, luyện tập) * Các bước cơ bản: Bước 1: Làm nảy sinh nhu cầu nhận thức của học sinh (Làm xuất hiện vấn đề và tạo cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu vấn đề đó) Bước 2: Tổ chức các hoạt động học tập, đưa bài toán về dạng cơ bản đã học hoặc làm cho nó đơn giản hơn. ( theo cá nhân, theo nhóm hay cả lớp ) Bước 3: Hướng dẫn học sinh trình bày ý kiến trước nhóm, trước lớp. Bước 4: Hướng dẫn học sinh nhận xét, đánh giá, bổ sung. Bước 5: Giáo viên hệ thống, kết luận vấn đề, hướng dẫn học sinh trình bày (chốt lại các vấn đề quan trọng) Bước 6: Tổ chức cho học sinh luyện tập, thực hành. 7.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG VIỆC SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP, HÌNH THỨC TỔ CHỨC DẠY HỌC: Để chuyển tải được những kiến thức khoa học tới cho học sinh, giáo viên phải sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học. Việc nắm bắt kiến thức của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào phương pháp giảng dạy của giáo viên.Trong xu thế dạy học hiện nay, giáo viên không còn là người truyền thụ tri thức theo một chiều, học sinh thụ động tiếp thu và làm theo. Người giáo viên cần căn cứ vào vốn sống, khả năng hiểu biết của học sinh để thiết kế các hoạt động nhằm giúp học sinh tự phát hiệnvà giải quyết vấn đề dưới sự trợ giúp của các bạn trong nhóm, trong lớp hay của giáo viên. Như vậy giáo viên trở thành người thiết kế người tổ chức hướng dẫn các hoạt động,.. còn học sinh là người thi công, người trực tiếp hoạt động để tìm tòi kiến thức. Cũng giống như việc giảng dạy các mạch kiến thức khác, khi dạy học sinh cách giải các bài toán về trung bình cộng và tổng – hiệu, giáo viên cần biết lựa chọn các PPDH sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Xuất phát từ các ví dụ hay các bài toán mẫu trong SGK giáo viên cần tổ chức cho học sinh thảo luận để tìm ra cách giải quyết vấn đề mà bài toán đưa ra. Trên cơ sở đó giáo viên giúp các em biết tổng hợp để rút ra những nhận xét hay những kết luận cần thiết. Giáo viên cần thông cảm, tránh nôn nóng. Giáo viên cần đầu tư thêm nhiều thời gian để giúp các em hiểu đến tận cùng cái gốc của vấn đề. Giáo viên cần gần gũi, động viên những em học yếu môn Toán, kịp thời khen ngợi mỗi khi học sinh có tiến bộ để các em tự tin hơn. Khuyến khích các em đưa ra được phương pháp giải hợp lí. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Sáng kiến có thể được áp dụng rộng rãi với các lớp 4, 5 trong các trường Tiểu học, không có thông tin bảo mật. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: * Về phía giáo viên: Dạy Toán ở Tiểu học nói chung, ở lớp 4 - 5 nói riêng là cả một quá trình kiên trì, đầy sự sáng tạo nên khi hướng dẫn học sinh giải toán nói chung giáo viên cần phải: - Có năng lực chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. Tích cực trau dồi kiến thức, tiếp cận với những phương pháp mới, thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức dạy học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh. - Giáo viên cần kiên trì, không nôn nóng. * Về phía học sinh: - Học sinh cần chăm học, tích cực, chủ động tiếp thu bài học. - Nắm chắc các bước giải toán, tích cực trải nghiệm, tự khám phá kiến thức mới. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: - Học sinh nắm chắc kiến thức, tự tin khi tham giải giải các bài toán có lời văn và phân số. *Kết quả đạt được qua các năm: Với những kinh nghiệm trên, qua nhiều năm giảng dạy, chúng tôi nhận thấy mức độ tiếp thu của các em đã đạt được những ưu điểm nổi bật sau đây: - So với những năm trước đây khi chưa triển khai sáng kiến thì mức độ tiếp thu bài của học sinh nhanh hơn, các em có khả năng phân loại và giải tốt các bài toán. Biết vận dụng sáng tạo các kiến thức vào các bài tập cụ thể. - Đứng trước mỗi bài toán về trung bình cộng và tổng - hiệu, các em không còn bỡ ngỡ, có khả năng định hướng được cách giải. Có kĩ năng biến đổi bài toán phức tạp để đưa về các dạng cơ bản, quen thuộc. - Các kiến thức cơ bản về giải toán của các em không ngừng được củng cố, mở rộng và phát triển. Những vướng mắc, tồn tại khi học phần nội dung kiến thức giải toán hầu như đã được khắc phục, nhiều kỹ năng mới được hình thành. - Các em được trang bị thêm nhiều phương pháp giải toán mới, biết cách khai thác và nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện. - Nhiều học sinh có kỹ năng tìm tòi và không chỉ dừng lại ở một cách giải trước mỗi bài toán khó. Học sinh trung bình và khá đã chinh phục được các bài toán khó, học sinh giỏi cũng đã tìm được nhiều cách giải khác nhau. Khả năng tư duy và năng khiếu của học sinh được phát triển. * Một điều quan trọng khẳng định việc triển khai đề tài đã đạt kết quả đáng kể là thành tích học sinh khi tham gia các sân chơi trí tuệ tự nguyên của khối lớp 4 trong năm 2020 – 2021 đều tăng cả về số lượng và chất lượng giải cao. Hầu như các bài toán tổng hiệu và trung bình cộng có trong các đề thi, học sinh đều đạt điểm tối đa. *Kết quả Khảo sát giáo dục học sinh theo TT 22/2016 Ban hành Quy định đánh giá học sinh tiểu học ở khối lớp 4 về giải các bài toán (đạt yêu cầu) năm học 2020-2021: Lĩnh vực Toán Cuối kì I Giữa kì II Cuối năm Tổng số % Tổng số % Tổng số % Hoàn thành kiến thức M1 70/123 56,9 85/123 69,1 123/123 100 Hoàn thành kiến thức M2 18/123 14,6 22/123 17,9 123/123 100 Hoàn thành kiến thức M3 20/123 16,3 32/123 26,0 39/123 31,7 Hoàn thành kiến thức M4 11/123 8,9 15/123 12,2 35/123 28,5 Số học sinh đạt điểm 5 trở lên 88/123 71,5 107/123 87,0 123/123 100 Kết quả khảo sát môn Toán ở khối lớp 4 năm học 2020 – 2021 theo đề của nhà trường đạt tỉ lệ điểm từ 5 trở lên như sau: Môn học Khảo sát đầu năm Cuối kì I Cuối năm Tổng số % Tổng số % Tổng số % Toán 88/123 71,5 107/123 87,0 123/123 100 *Kết quả các cuộc thi năng khiếu 2020 – 2021: Mặc dù xuất phát của phần lớn học sinh khối lớp 4 đều là những học sinh trung bình, nhận thức còn chậm, thế nhưng năm học 2020 - 2021 vừa qua, khối lớp 4 có 25 em vẫn mạnh dạn tham gia các sân chơi trí tuệ. Ở cuộc thi Violympic Toán Tiếng Việt, vòng cấp huyện có 23 em đã được cấp giấy chứng nhận qua vòng thi cấp Huyện, vòng cấp Tỉnh có 21 em đạt trên 250 điểm. Ở cuộc thi Violympic Toán Tiếng Anh, có 11 em tham gia, kết quả 10 em được cấp giấy chứng nhận qua vòng Tỉnh và 6 em được tiếp tục tham dự vòng Quốc gia. Trong đó có 3 em đạt trên 200 điểm. Giao lưu Trạng nguyên Toàn tài cấp Tỉnh, có 1 em đạt giải Nhất, 1 em giải Nhì, 1 em giải Ba. Sở dĩ có kết quả như vậy là nhờ các em nắm chắc kiến thức cũng như phương pháp giải các dạng Toán có lời văn đã học. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: - Học sinh có ý thức học và yêu thích học môn Toán hơn và các em có ý thức tự học và rèn tác phong nhanh nhẹn, cẩn thận khi làm toán; - Hầu hết các em đều có khả năng hoàn thiện nội dung bài kiểm tra cuối kì, cuối năm từ điểm 5 trở lên; - Nhờ vậy mà các em có nền tảng để học môn Toán ở cấp học sau tốt hơn. 11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: STT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực áp dụng sáng kiến 1 Giáo viên Hoàng Thị Kim Quyên - Lớp 4C Trường Tiểu học Yên Thạch – Sông Lô – Vĩnh Phúc Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán (trung bình cộng và tổng – hiệu) 2 Giáo viên Tạ Văn Khôi - Lớp 4D Trường Tiểu học Yên Thạch - Sông Lô - Vĩnh Phúc Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán (trung bình cộng và tổng – hiệu) 3 Giáo viên Lê Thị Quý Lan Lớp 4A Trường Tiểu học Yên Thạch - Sông Lô - Vĩnh Phúc Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán (trung bình cộng và tổng – hiệu) 4 Thầy Nguyễn Việt Hùng – Lớp 4B Trường Tiểu học Yên Thạch - Sông Lô - Vĩnh Phúc Hướng dẫn học sinh lớp 4 giải các bài toán (trung bình cộng và tổng – hiệu) Yên Thạch, ngày.....tháng......năm 2021 HIỆU TRƯỞNG Trương Viết Bào Yên Thạch, ngày.....tháng......năm 2021 TÁC GIẢ (Ký, ghi rõ họ tên) Hoàng Thị Kim Quyên; Trương Viết Bào ......., ngày.....tháng......năm 2021 HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP HUYỆN
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_huong_dan_hoc_sinh_lop_4_giai_cac_bai.docx
TOM TAT - HOANG THI KIM QUYEN - TH YEN THACH.docx