Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 4 khắc phục một số sai sót khi giải toán có lời văn
Môn Toán là một môn học chiếm một vị trí rất quan trọng và then chốt trong nội dung chương trình các môn học bậc Tiểu học. Bởi các kiến thức kĩ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần cho người lao động, rất cần thiết để học các môn khác ở Tiểu học và các lớp trên. Môn Toán góp phần phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng của người lao động như: cần cù, cẩn thẩn, có ý chí vượt khó, làm việc có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học... Việc sử dụng phương pháp dạy học (PPDH) cũng chính là sử dụng một trong những "đồ nghề" hỗ trợ cho việc dạy học của người giáo viên. Tùy thuộc vào mục đích và khả năng sử dụng của người dạy và học, tùy thuộc vào hoàn cảnh dạy học cụ thể: Đối tượng học sinh, thiết bị dạy học và không khí học tập. Trong thực tiễn, cần phải phối hợp và sử dụng nhiều phương pháp dạy học khác nhau mới mang lại hiệu quả thiết thực. Đó chính là nghệ thuật dạy học của người giáo viên (bởi" nghệ thuật dạy học là nghệ thuật phối hợp các PPDH " trong một bài dạy của người giáo viên).
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học Toán ở tiểu học nói riêng người giáo viên phải biết kết hợp nhiều PPDH vào trong một tiết dạy.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 4 khắc phục một số sai sót khi giải toán có lời văn

ộ nhận thức học sinh không đồng đều. Một số học sinh còn chậm, nhút nhát, kĩ năng tóm tắt bài toán còn hạn chế, chưa có thói quen đọc và tìm hiểu kĩ bài toán dẫn tới thường nhầm lẫn giữa các dạng toán, lựa chọn phép tính cũng sai, chưa bám sát vào yêu cầu bài toán để tìm lời giải thích hợp với các phép tính. Kĩ năng tính nhẩm với các phép tính (hàng ngang) và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng bài toán vì thế phải có phương pháp khắc sâu kiến thức. Vì vậy mà qua khảo sát chất lượng đầu năm vào thời điểm tháng 10/2019 (năm học 2019 - 2020) về giải bài toán: Tổng số là 28 học sinh của lớp 4B là như sau: Tóm tắt bài toán Chọn và thực hiện đúng phép tính Lời giải và đáp số Đạt Chưa đạt Đúng Sai Đúng Sai SL % SL % SL % SL % SL % SL % 17 60,7 11 39,3 15 53,6 13 46,4 22 78,6 6 21,4 3. Khảo sát thực trạng: Sau khi dạy phần giải toán ở lớp 4 đến giữa học kì 2 năm học 2019 - 2020 tôi đã tiến hành cho HS làm bài kiểm tra để lấy kết quả điều tra thực trạng đối với 2 đề bài là 2 dạng toán điển hình ở lớp 4. Đề bài: Bài 1: Một cửa hàng bán 1250 kg gạo nếp và tẻ. Biết số kg gạo nếp bán bằng số kg gạo tẻ. Tính số kg gạo mỗi loại đã bán? Bài 2: Đặt đề toán và giải theo tóm tắt sau: Tóm tắt: ? cây Số cây cam: | | 60 cây Số cây dứa: | | | | | ? cây Biểu điểm: Bài 1: Tóm tắt đúng: 1 điểm Mỗi câu lời giải đúng: 0, 5 điểm Mỗi phép tính đúng: 0,75 điểm (kèm danh số) Đáp số đúng 0,25 điểm Bài 2: Đặt đúng đề toán theo tóm tắt: 1 điểm Mỗi câu lời giải đúng: 0,5 điểm Mỗi phép tính đúng: 0,75 điểm (kèm theo danh số) Đáp số đúng: 0,25 điểm Đáp án: Bài 1: Tóm tắt: ? kg Gạo nếp: | | 1250 kg Gạo tẻ: | | | | | ? kg Bài giải: Tổng số phần bằng nhau là: 1 + 4 = 5 (Phần) Số kg gạo nếp là: 1250 : 5 = 250 (kg) Số kg gạo tẻ là: 1250 - 250 = 1000 ( kg) Đáp số : gạo nếp: 50 ( kg) gạo tẻ : 1000 (kg) Bài 2: Đặt đề toán: Trong vườn trồng cam và dứa, số cây cam bằng số cây dứa và kém số cây dứa 60 cây. Tính số cây cam và cây dứa ? Bài giải: Hiệu số phần bằng nhau là: 4 - 1 = 3 (phần) Số cây cam là: 60 : 3 = 20 (cây) Số cây dứa là: 20 + 60 = 80 (cây) Đáp số: Số cây cam: 20 cây Số cây dứa : 80 cây Sau khi chấm tôi thấy, khi giải toán các em thường mắc phải những sai lầm và kết quả đạt được như sau: Tôi đã tổng hợp điểm như sau: Đề Sĩ số Điểm 5 trở lên Điểm dưới 5 SL TL SL TL Đề 1 28 em 23 em 82,1% 5 em 17,9% Đề 2 28 em 23 em 82,1% 5 em 17,9% 2. Những sai lầm, nguyên nhân và biện pháp khắc phục. Dạng 1: Viết câu lời giải sai so với phép tính hoặc câu lời giải thừa hoặc thiếu chữ. VD: Đề 1: HS viết lời giải sai so với phép tính Số kg gạo nếp và tẻ là: 1250 : 5 = 250 ( kg) Số kg gạo mỗi loại là: 1250 - 250 = 1000 ( kg) * Đáp án đúng phải là: Số kg gạo nếp là: 1250 : 5 = 250 ( kg) Số kg gạo tẻ là: 1250 - 250 = 1000 ( kg) Hay HS viết thừa chữ ở câu lời giải: VD: Đề 2: Tính số cây cam là: 60 : 3 = 20 ( cây) Tính số cây dứa là: 20 + 60 = 80 (cây) Hoặc có khi HS lại viết câu lời giải cuối: Hỏi cửa hàng còn lại bao nhiêu kg đường là: * Nguyên nhân: Do các em chưa hiểu kĩ yêu cầu của bài toán nên chưa nắm được mối quan hệ logic giữa phép tính và lời giải. * Biện pháp: + Tôi yêu cầu HS đọc kĩ đề bài. Xác định đúng yêu cầu của đề toán bằng cách đặt các câu hỏi dạng: - Bài toán yêu cầu ta tìm gì? - Muốn tìm được ta.... phải làm gì? Làm phép tính gì? - Vậy lời giải tương ứng là gì? + Khi chữa bài tôi thường ghi ra bảng phụ những câu lời giải, phép tính không tương ứng để HS phát hiện và sửa lại cho đúng. + Đối với các câu hỏi thừa hoặc thiếu. Tôi hướng dẫn HS dựa vào các câu hỏi lược bỏ đi các từ “hỏi” thay từ “bao nhiêu” bằng từ “số” và thêm vào cuối câu hỏi từ “là”. Sau đó tôi yêu cầu HS trả lời miệng câu lời giải nhiều lần. Từ đó tạo cho các em thói quen sử dụng câu hỏi chính xác hơn. Dạng 2: Đối với các bài toán hợp các em chỉ giải bằng một phép tính đơn giản. VD: Bài 5 trang 139 SGK Toán 4: Một kho chứa 23 450 kg cà phê. Lần đầu lấy ra 2710 kg cà phê, lần sau lấy ra gấp đôi lần đầu. Hỏi trong kho còn lại bao nhiêu ki - lô - gam cà phê ? HS phải xác định đây là dạng toán hợp giải bằng 2 phép tính nhưng có em chỉ giải bằng một phép tính đơn giản: Bài giải: Trong kho còn lại số kg cà phê là: 23 450 – 2710 = 20 740 (kg) Đáp số: 20740 kg * Nguyên nhân: + Do các em không hiểu đề bài. Đọc lướt qua bài là làm ngay không cần phân biệt được đâu là dữ liệu, đâu là điều kiện và đâu là ẩn số. + Do các em chưa biết phân tích bài toán hợp thành các bài toán đơn để giải * Biện pháp: + Trước hết tôi yêu cầu HS đọc kĩ đề bài tự tóm tắt được bài toán theo các câu hỏi dạng: - Bài toán cho ta biết gì? Bài toán yêu cầu ta tìm gì? Đối với một số bài toán dạng Tìm 2 số khi biết tổng và hiệu của 2 số đó, Tìm 2 số khi biết tổng và tỉ số của 2 số đó, Tìm 2 số khi biết hiệu và tỉ số của 2 số đó HS cần tóm tắt theo sơ đồ đoạn thẳng và chia tỉ lệ cho chính xác. + Khi HS đã tóm tắt đợc bài toán tôi yêu cầu các em đọc lại đề bài dựa vào tóm tắt để các em hiểu kĩ hơn yêu cầu của bài. + Tôi yêu cầu HS xác định được bài toán đó thuộc dạng toán nào chúng ta đã học để giúp các em nhớ lại cách làm, các phép tính có trong bài toán chứ không thể chỉ làm 1 phép tính đơn giản đối với các bài toán hợp. + Tạo cho các em thói quen tìm và xây dựng kế hoạch giải toán theo phương pháp phân tích, tổng hợp và giải theo sơ đồ phân tích đúng. Dạng 3: Câu trả lời sai nhưng đơn vị kèm theo đúng hoặc câu trả lời đúng nhưng đơn vị kèm theo lại sai. VD: Đề 2: Lời giải đúng là: “Số cây cam có là” thì đơn vị kèm theo là “cây” nhưng HS lại viết đơn vị kèm theo là “cam”. * Nguyên nhân: Do các em không hiểu yêu cầu của bài toán, không biết bắt đầu từ đâu. Nhiều khi cứ làm nhưng không hiểu làm thế để làm gì? *Biện pháp: + Ngay từ phần tóm tắt đề bài, tôi chú ý yêu cầu HS phải viết đầy đủ đơn vị kèm theo vào từng phần câu hỏi. + Sau khi lập kế hoạch giải, tôi yêu cầu các em trả lời phép tính phải nêu lên được đơn vị kèm theo. Nếu các em nêu sai, tôi kịp thời cho HS sửa lại và nhấn mạnh ngay vào câu lời giải là tìm số gì? thì đơn vị kèm theo phải là “chữ” viết ngay sau chữ “số”. Trên đây là những thực trạng và giải pháp mà tôi đã thực hiện nhằm giúp HS khắc phục những sai sót khi giải toán có lời văn ở lớp 4. 4. Thực nghiệm sư phạm và những đề xuất. 4.1. Mục đích thực nghiệm Thông qua thực nghiệm, tôi muốn làm rõ một số vấn đề sau: + Giáo viên phải phân loại HS và các lỗi các em thường mắc để tìm ra cách dạy phù hợp đối với đối tượng những HS đó. + Biến tri thức của sách thành của riêng mình áp dụng dạy cho HS dễ hiểu, dễ nhớ và hiểu rõ bản chất cũng như trình tự làm một bài toán giải có lời văn ở lớp 4. 4.2. Nội dung thực nghiệm: Sau 1 năm áp dụng các biện pháp trên đối với 28 HS của lớp 4B năm học: 2019 - 2020. Tôi đã thu được kết quả bài kiểm tra sau: Đề bài: Bài 1: Một mảnh đất hình chữ nhật có chiều dài gấp 4 lần chiều rộng và hơn chiều rộng 60m. Tính chu vi của mảnh đất đó. Bài 2: Đặt đề toán và giải theo tóm tắt sau: Tóm tắt ?quyển Sách Giáo Khoa: | | 150 quyển Sách Tham Khảo: | | | | | | ? quyển Biểu điểm: Bài 1: Tóm tắt đúng: 1 điểm Mỗi câu lời giải đúng: 0,3 điểm Mỗi phép tính đúng: 0,4 điểm (kèm danh số) Đáp số đúng 0, 5 điểm Bài 2: Đặt đúng đề toán theo tóm tắt: 1 điểm Mỗi câu lời giải đúng: 0,5 điểm Mỗi phép tính đúng: 0,75 điểm (kèm danh số) Đáp số đúng 0,25 điểm Đáp án: Bài 1: Bài giải: ? m Chiều rộng: | | 60 m Chiều dài: | | | | | ? m Theo sơ đồ, hiệu số phần bằng nhau là: 4 - 1 = 3 (phần) Chiều rộng mảnh đất hình chữ nhật là: 60 : 3 = 20 (m) Chiều dài mảnh đất hình chữ nhật là: 20 + 60 = 80 (m) Chu vi của mảnh đất hình chữ nhật là: (20 + 80 ) x 2 = 200 (m) Diện tích mảnh đất hình chữ nhật là: 20 x 80 = 1600 (m2) Đáp số: Chu vi: 200m. Diện tích: 1600m2 Bài 2: Đặt đề toán: Thư viện nhà trờng vừa nhận một số sách Giáo Khoa và sách Tham khảo. Trong đó sách Tham khảo bằng sách Giáo Khoa và ít hơn sách Giáo khoa là 150 quyển. Tính số sách mỗi loại? Bài giải: Hiệu số phần bằng nhau là: 4 - 1 = 3 (phần) Số sách Giáo Khoa là: 150 : 3 = 50 (quyển) Số sách Tham Khảo là: 50 x4 = 200 (quyển) Đáp số: sách Giáo Khoa: 50 quyển sách Tham Khảo: 200 quyển Sau khi chấm bài, tôi thấy kết quả như sau: Tôi đã tổng hợp điểm như sau: Đề Sĩ số Điểm 5 trở lên Điểm dưới 5 SL TL SL TL Đề 1 28 em 25 em 82,1% 3 em 17,9% Đề 2 28 em 24 em 82,1% 4 em 14,3% Qua kết quả thực nghiệm như trên, tôi rất hài lòng về các biện pháp khắc phục mà mình đã thực hiện, từ đó giúp cho một bộ phận các em thực hiện đúng các bài toán có lời văn. C. PHẦN KẾT LUẬN 1. Tóm lược các giải pháp đã thực hiện: Trong công tác giảng dạy, vai trò của người giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là môn Toán. Người giáo viên chủ yếu cung cấp cho học sinh một cách đầy đủ, chính xác, có hệ thống kiến thức. Ngoài ra, còn thường xuyên rèn luyện cho các em những kĩ năng cần thiết giúp các em có phương pháp, vận dụng kiến thức đã học vào việc làm các bài tập liên hệ với thực tiễn. Vì vậy, môn học này có vai trò vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo dục phổ thông. Toán giải có lời văn đóng vai trò quan trọng trong quá trình nhận thức và phát triển khả năng tư duy, kĩ năng tính toán cho HS. Kiến thức các dạng toán giải có lời văn tuy không khó đối với HS đại trà song nó lại là vấn đề khó đối với một bộ phận HS có khả năng tư duy kém, khă năng tiếp thu chậm. Trong dạy học, giáo viên phải quan tâm đến đối tợng HS có khả năng học toán chậm để phân loại các lỗi thờng mắc và có biện pháp khắc phục để các em có thể tự làm các bài toán giải có lời văn trong chương trình một cách thành thạo. Giáo viên cần chú ý dành nhiều thời gian cho các em thực hành các bài toán giải có lời văn vào các tiết học phụ đạo. Từ đó giúp các em có hứng thú trong việc học toán. 2. Kết quả đạt được: Có thể đây chưa phải là một kết quả cao nhưng qua quá trình sử dụng những biện pháp trên với lớp 4B thì tôi nhận thấy có sự chuyển biến trong việc giải toán của các em: * Kết quả cuối học kì I: Môn Toán Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 SL % SL % SL % SL % 13 46,4 9 32,2 5 17,9 1 3,57 * Kết quả giữa học kì II: Môn Toán Điểm 9-10 Điểm 7-8 Điểm 5-6 Điểm 3-4 SL % SL % SL % SL % 17 60,7 8 28,6 3 10,7 / / Đây là kết quả học tập của học sinh lớp 4B trong thời gian tôi nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm. Bài học kinh nghiệm: Qua thực tế áp dụng các PPDH trên vào hướng dẫn học sinh học tốt môn Toán, bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây: - Giáo viên phải nắm được toàn bộ chương trình môn Toán lớp 4, nắm vững kiến thức Toán trong SGK; SGV; chuẩn kiến thức kĩ năng. Có đầy đủ đồ dùng dạy và học cho giáo viên và học sinh ở các tiết học. có phần củng cố bằng các trò chơi: “Trò chơi học Toán” và chuyển từ kiến thức cũ giúp học sinh khai thác kiến thức mới một cách hấp dẫn, khoa học. Biết tổ chức các PPDH gắn với các bài tập thực hành luyện tập giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới và vận dụng làm các bài tập một cách chính xác. Đây cũng là cách giúp các em ghi nhớ lâu những qui tắc và vận dụng giải các bài tập đã học để khi lên lớp trên Giáo viên nhắc tới những dạng bài tập đó là các em nhớ và vận dụng làm được ngay. Như vậy sẽ tránh được những em học sinh lên lớp trên mà kiến thức Toán tiểu học bị hổng. - Giáo viên cần gần gũi với học sinh hơn nữa và có sự linh hoạt trong cách tổ chức các PPDH, giúp học sinh tự tin, giúp các em tự giác biết cách làm bài Toán một cách khoa học, chính xác, sửa chữa những điểm yếu, điểm sai của mình. - Riêng đối với bản thân tôi, điều cần thiết và không thể coi nhẹ là phải dạy tốt lý thuyết, từ đó mới phát triển được các tư duy, suy luận cho học sinh. Để rèn luyện kĩ năng giải Toán cho học sinh thì trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải lựa chọn các phương pháp dạy tốt. Khi dạy học sinh lớp 4 học Toán, giáo viên phải đặt ra tình huống để các em suy nghĩ, tìm tòi cách giải khác nhau. 4. Kiến nghị và đề xuất: 4.1. Kiến nghị: 1. Đối với các cấp quản lý: - Cần quan tâm hơn nữa đối với việc bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. - Qua sáng kiến kinh nghiệm trên mong các cấp lãnh đạo tạo điều kiện để phổ biến các kinh nghiệm trên một cách rộng rãi tới các lớp, các trường 2. Đối với các cấp chính quyền: - Cần tuyên truyền, vận động cho phụ huynh nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong việc học tập của con em mình. 3. Đối với Phụ huynh: - Cần quan tâm đến việc học tập của con em mình. - Tạo điều kiện thuận lợi để các em đến lớp một cách chuyên cần. 4. Đối với nhà trường: - Cung cấp thiết bị và đồ dùng dạy học cho giáo viên và học sinh. - Tăng cường tài liệu nghiên cứu và sách tham khảo cho giáo viên. 5. Đối với giáo viên: - Cần trau dồi, tự nâng cao về kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, đặc biệt là kiến thức về toán học có vậy mới đáp ứng yêu cầu của môn học đầy phong ba, bão táp này. 4.2. Đề xuất: Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu và áp dụng các biện pháp trên để “Giúp học sinh lớp 4 khắc phục một số sai sót khi giải toán có lời văn”. Tôi mạnh dạn đưa ra một số đề xuất sau: - Sách giáo khoa cần bỏ bớt một số bài toán không gần gũi với thực tế, đưa vào các bài toán phù hợp với kiến thức cuộc sống của các em hơn. - Nhà trường cần tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện dạy học, hỗ trợ giáo viên khi giáo viên sử dụng phiếu học tập cho học sinh. - Giáo viên cần quan tâm đến các đối tượng HS yếu, hướng dẫn HS một cách cặn kẽ, dễ hiểu và nhẹ nhàng đối với các em. - Đối với các em có nhiều tiến bộ, giáo viên cần phải khuyến khích động viên kịp thời để các em ngày càng tiến bộ hơn. Trên đây là một số PPDH giúp học sinh học tốt môn Toán trong chương trình Tiểu học nói chung và chương trình Toán lớp 4 nói riêng. Trong suốt thời gian qua bản thân tôi đã nghiên cứu, vận dụng vào thực tế giảng dạy và chất lượng học tập của học sinh đã nâng lên rõ rệt. Các em đã thực sự phấn khởi, tự tin khi học Toán. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế, thiếu sót. Vì vậy, tôi rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu của đồng nghiệp để đề tài này được hoàn thiện và đạt kết quả cao hơn, đồng thời được áp dụng rộng rãi trong việc dạy học môn Toán ở Tiểu học. Tôi xin chân thành cảm. XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Quảng Trị, ngày 30 tháng 6 năm 2020 Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết đề tài Nguyễn Thị Mai Hương D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí giáo dục tiểu học số 4 - 1999 về dạy giải toán có lời văn - Đặng Tự Ân 2. Tạp chí giáo dục tiểu học - PGS - PTS Đỗ Trung Hiệu 3. Các bài toán lý thú ở tiểu học - Tác giả: Trương Công Thành (Nhà xuất bản giáo dục) 4. Trình bày lời giải trong giải toán ở tiểu học - PTS Kiều Đức Thành 5. Giải bài toán tiểu học như thế nào - Tác giả: Phạm Đình Thục (Nhà xuất bản giáo dục) 6. Sách giáo khoa - Sách giáo viên Toán 4
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_4_khac_phuc_mot_so_s.doc