Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó

Toán học là ông vua của mọi ngành khoa học” – Albert Einsein. Thật vậy, toán học luôn là lĩnh vực có sức hấp dẫn để con người khám phá. Ở bậc học Tiểu học, môn Toán là môn học giữ vị trí hết sức quan trọng. Các kiến thức, kĩ năng của môn Toán ở Tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống, chúng rất cần thiết cho người lao động, cần thiết để học sinh học tốt các môn học khác ở Tiểu học và chuẩn bị cho việc học tốt môn Toán ở bậc Trung học. Môn Toán giúp học sinh nhận biết những mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực, góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy luận, những thao tác tư duy và các phẩm chất trí tuệ.

Theo tinh thần đổi mới giáo dục ở Tiểu học hiện nay, với quan điểm “lấy người học làm trung tâm”, dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực người học, giáo viên giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc tìm ra các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh. Vậy yêu cầu giáo dục đặt ra hiện nay là giáo viên phải tìm ra được các phương pháp, cách thức dạy học mới để đem lại những giờ học sôi động, vui vẻ, lí thú mà vẫn đạt hiệu quả cao, nâng cao chất lượng dạy học môn Toán.

Trong dạy học toán ở Tiểu học, có thể nói dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” chiếm vị trí quan trọng và là một trong những nội dung khó. Khi giải dạng toán này, học sinh cần tư duy một cách tích cực và linh hoạt, huy động các kiến thức và khả năng đã có vào các tình huống khác nhau. Trong nhiều trường hợp phải biết phát hiện những dữ kiện hay điều kiện chưa được nêu ra một cách tường minh và trong chừng mực nào đó phải suy nghĩ năng động, sáng tạo. Chính vì thế phần lớn học sinh học chưa tốt nội dung này. Dựa trên thực trạng dạy học môn Toán lớp 4 nói chung tôi muốn đưa ra một số ý kiến đổi mới cách dạy học để giúp các em hứng thú trong học tập, tìm tòi, khám phá cách giải, tránh bị nhầm lẫn, giúp các em nắm chắc bài và yêu thích môn toán hơn.

docx 14 trang Hương Thủy 28/10/2025 100
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó

Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó
iúp học sinh nắm vững kiến thức tôi đưa ra 2 ví dụ. Một ví dụ tôi lấy trong sách để học giúp học sinh hình thành được công thức rồi sau đó tôi đưa ra 1 bài toán nữa không nằm trong sách giáo khoa để giúp học sinh vận dụng tốt công thức.
Chẳng hạn: Hai kho chứa 48 tấn thóc, kho thứ nhất chứa nhiều hơn kho thứ hai 8 tấn. Hỏi mỗi kho chứa bao nhiêu tấn thóc.
Lúc này học sinh sẽ nhận thấy rằng dữ liệu đề bài không chỉ rõ ràng hai chữ “ tổng” và “ hiệu” như ví dụ trong sách nữa mà lúc này học sinh phải tư duy để tìm ra đâu là tổng và đâu là hiệu. Sau khi xác định được tổng và hiệu thì một số học sinh sẽ chưa biết gắn tên gọi của đại lượng trong bài với tên gọi “ Số lớn”, “Số bé” nên lẽ ra phải trả lời là:
Số thóc trong kho thứ nhất là:
( Hoặc: Kho thứ nhất chứa số thóc là:......)
Số thóc trong kho thứ hai là:
( Hoặc: Kho thứ hai chứa số thóc là:.....)
Thì một số em sẽ chỉ viết rằng: “ Kho lớn là”, “ Kho bé là”
Khi tiến hành hoạt động này tôi áp dụng kĩ thuật “ Khăn trải bàn” để tiến hành tổ chức hoạt động cho học sinh
Bước 1: Giáo viên chia lớp thành nhóm 4, phát phiếu cho các nhóm
Bước 2: Giáo viên yêu cầu mỗi học sinh quản lí một góc phiếu, làm cá nhân vào góc phiếu của mình. Sau đó nhóm trưởng sẽ tổng hợp, đưa ra kết quả cuối cùng vào giữa phiếu.
Bước 3: Giáo viên yêu cầu các nhóm gắn phiếu lên bảng và một số nhóm trình bày và nhận xét.
Bước 4: Sau thảo luận học sinh rút ra kết luận: Khi thực hiện giải toán cần phải gắn tên đại lượng phù hợp với “ Số lớn” , “Số bé” và áp dụng đúng công thức để làm bài.
Sau khi học sinh tiến hành xong 2 hoạt động tôi đặt câu hỏi với học sinh: Vậy khi giải dạng toán “tổng - hiệu” ta làm theo những bước nào?Sau đó tôi kết luận về các bước giải dạng toán này.
Bước 1: Xác định: Tổng? Hiệu?
( Tên gọi số lớn? Tên gọi số bé?)
Bước 2: Vẽ sơ đồ tóm tắt
Bước 3: Trình bày lời giải phù hợp với sơ đồ tóm tắt
Bước 4: Thử lại
( Lấy số bé cộng hiệu so sánh với số lớn, lấy số bé cộng với số lớn so sánh với tổng)
Giải pháp 3: Tổ chức hoạt động dạy học trong lớp theo hướng trải nghiệm.
Dạy học thông qua trải nghiệm là cách thức tổ chức quá trình dạy học thông qua một chuỗi các hoạt động trải nghiệm của người học. Dạy học thông qua trải nghiệm khuyến khích tổ chức các hoạt động độc lập, tự học hoặc nhóm hợp tác của học sinh, đòi hỏi giáo viên thiết kế, đạo diễn các hoạt động học tập giúp học sinh tự phát hiện, phân tích và vận dụng kiến thức thông qua quy trình gồm 5 bước: (1) Gợi động cơ, tạo hứng thú → (2) Trải nghiệm → (3) Phân tích, khám phá, rút ra bài học → (4) Thực hành → (5) Vận dụng.
Thông thường sau khi học xong bài học giáo viên thường củng cố dạng toán “ tổng - hiệu” bằng cách yêu cầu học sinh nhắc lại công thức: Muốn tìm số lớn ta làm như thế nào? Muốn tìm số bé ta làm như thế nào? nhưng như vậy học sinh vẫn chưa có thể vận dụng được tốt vào các bài tập ở các dạng khác nhau vì tất cả những bài tập trong sách giáo khoa mức độ rất đơn giản và yếu tố tổng - hiệu trong bài đã rất tường minh nên học sinh chỉ cần áp dụng công thức làm bài. Chính vì vậy khi tôi dạy dạng toán này ở phần củng cố và dặn dò tôi tiến hành tổ chức hoạt động cho học sinh theo hướng trải nghiệm như sau:
Hoạt động 1: Gợi động cơ, tạo hứng thú:
Tôi đưa ra một bài toán như sau: Trung bình cộng của hai số bằng 25. Số thứ nhất hơn số thứ hai 12 đơn vị. Tìm hai số đó?
Hoạt động 2: Trải nghiệm – Khám phá – Rút ra cách làm:
- Học sinh thảo luận nhóm để tìm ra cách giải quyết:
+ Học sinh nhận thấy dữ liệu bài toán chỉ cho biết hiệu mà chưa cho biết tổng vì vậy học sinh thảo luận cách làm để tìm ra tổng.
- Học sinh thảo luận tìm ra cách tổng : Muốn tìm tổng ta lấy trung bình cộng nhân với số số hạng.
Hoạt động 3: Thực hành:
- Học sinh trình bày lời giải
Bài giải
Tổng của hai số là:
25 x 2 = 50
Số thứ nhất
 Số thứ hai
?
?
50
12
Ta có sơ đồ:
Số thứ nhất là:
(50 + 12) : 2 = 31
Số thứ hai là:
(50 – 12) :2 = 19
Đáp số: Số thứ nhất:31
 Số thứ hai: 19
‘
Hoạt động 4: Vận dụng:
- Học sinh sưa tầm những bài toán thuộc dạng toán “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” mà tổng hoặc hiệu không tường minh.
Như vậy sau hoạt động này học sinh nhận thấy rằng dạng toán tổng- hiệu không chỉ đơn thuần như sách giáo khoa mà còn có rất nhiều dạng phức tạp từ đó kích thích tính tìm tòi khám phá ở các em.
Giải pháp 4: Đổi mới hình thức nhận xét bài làm của bạn.
Con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực tiễn". Chính vì vậy, đồ dùng, thiết bị dạy học có vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo hứng thú cho học sinh, đặc biệt là các đồ dùng dạy học tự làm. Những đồ dùng dạy học như: những tấm bìa tam giác, hình thang,... phiếu học tập hình bông hoa, đồ dùng tổ chức các trò chơi...
Tôi nhận thấy khi tiến hành cho học sinh nhận xét bài làm của bạn thì hầu hết giáo viên chỉ làm theo phương pháp truyền thống như:
+ Gọi học sinh đứng dậy nhận xét bài làm của bạn sau đó hỏi ý kiến của cả lớp xem có đồng ý với nhận xét của bạn hay không.
+ Gọi học sinh lên bảng dùng phấn nhận xét bài bạn.
+ Giáo viên đọc bài làm của bạn sau đó hỏi ý kiến học sinh dưới lớp bằng hình thức: ai đồng ý thì giơ tay, ai không đồng ý thì không giơ tay.
Tuy nhiên tôi nhận thấy rằng nếu giáo viên cứ áp dụng các hình thức như vậy sẽ khiến học sinh nhàm chán, khiến giờ học trở nên không sôi động. Vậy thay vì 
những hình thức nhận xét bài truyền thống thì giáo viên nên đổi mới để lôi cuốn các em vào bài học, tăng hứng thú học tập cho các em và khiến giờ học trở nên sôi động hơn.
Ví dụ khi tiến hành dạy học bài “ Tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó” có thể tiến hành làm theo các cách như sau:
+ Cho học sinh giơ bảng mặt cười ( nếu học sinh đồng ý với ý kiến của bạn), giơ bảng mặt mếu ( nếu học sinh không đồng ý với ý kiến của bạn).
+ Tiến hành cho học sinh làm hình ảnh bông hoa nở (nếu học sinh đồng ý với bài của bạn), hình ảnh nụ hoa ( nếu học sinh không đồng ý với bài bạn)
Giải pháp 5: Đổi mới hình thức động viên, khen thưởng học sinh.
Đặc điểm chung của học sinh tiểu học là thích được khen. Vì vậy, giáo viên cần có sự động viên, khích lệ một cách kịp thời để các em cùng nhau phấn đấu, cùng nhau tiến bộ là một điều vô cùng trong quá trình dạy học nói chung và dạydạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu nói riêng. Có rất nhiều cách động viên, khen thưởng như:
a. Động viên.
- Khi học sinh trả lời gần đúng đáp án, giáo viên có thể bằng cử chỉ, điệu bộ kết hợp với lời nói : “Gần đúng rồi”, “Cố lên em”...
- Khi học sinh trả lời sai, giáo viên có thể nói rằng: “Cô thấy em trong giờ học con rất tập chung nghe cô giảng bài nhưng chắc do con hơi mất tự tin một chút nên kết quả của con chưa đúng, con cẩn thận hơn một chút nữa thì cô nghĩ con sẽ làm rất tốt”
- Khi học sinh trả lời đúng, giáo viên có thể nói rằng: “ Con giỏi lắm, con cố gắng phát huy nhé! ”
- Kích thích học sinh đưa ra các câu trả lời bằng cách nói: “Bạn nào giỏi cho cô biết...”, “Hãy giúp cô...”, “Đã có 2, 3, 4... bạn biết rồi, còn bạn nào biết nữa không?”...
b. Khen thưởng
- Khen thưởng, đánh giá bằng thư tay: Thư tay là một trong những hình thức khen thưởng, đánh giá mà học sinh cảm thấy rất yêu thích.Trong hình thức này, giáo viên là người thiết kế thư tay, viết các nội dung khen thưởng, động viên, nhắc nhở vào đó. Học sinh nhận được thư có thì sẽ dán trên góc học tập để trưng bày trong tháng.
MỖI NGÀY ĐẾN TRƯỜNG LÀ MỘT NGÀY VUI
THƯ KHEN
Cô biết trong giờ học vừa rồi, con đã có rất nhiều cố gắng và tiến bộ, con đã tính toán nhanh hơn. Con thấy không, khi ta tập trung chú ý để làm một việc gì đó sẽ hiệu quả hơn. Cô hy vọng rằng con sẽ phát huy trong thời gian tới. Cô khen!
 	 Cô A
 Lớp 4C
Trường Tiểu học
Ví dụ :
- Khen thưởng, đánh giá bằng các hình sticker : Sau mỗi hoạt động để đánh giá kết quả học tập của học sinh, giáo viên có thể sử dụng các thẻ dán sticker.
Sau khi nhận được sticker, học sinh trưng bày ở góc lớp của mình và học sinh hãy tự nói lên cảm nhận về kết quả mình hoàn thành hôm nay. Cuối tháng, học sinh tổng hợp lại kết quả của mình đạt được, bạn nào có nhiều sticker tốt nhất sẽ được đổi lấy quà từ cô giáo.
Khen thưởng, đánh giá bằng hình thức dán ảnh tôn vinh trên bảng sau mỗi hoạt động :Dán ảnh tôn vinh là hình thức khen thưởng học sinh được dán ảnh trực tiếp của mình lên trên góc bảng. Sau mỗi buổi học, giáo viên sẽ tổng kết lại kết quả đạt được của học sinh. Từ đó, học sinh sẽ lên trình bày cảm nghĩ của mình về những gì mình đạt được.
Hình thức khen thưởng này, học sinh cảm nhận một cách trực tiếp mình được tôn vinh, được động viên trước lớp. Từ đó học sinh được tiếp thêm động lực một cách mạnh mẽ, chắc chắn các em sẽ cố gắng và tiến bộ trong các hoạt động học tập.
Khen bằng miệng: “Tốt lắm!”, “Giỏi lắm!”, “Em có tiến bộ rồi”, “Em cần cố gắng hơn”...; khen bằng hình thức vỗ tay, tặng quà...
Khi nhận xét vở của học sinh, em nào làm tốt có những lời nhận xét: “Em làm bài tốt. Cô khen!”, “Em đã hiểu bài”, “Tiếp tục phát huy em nhé!”; em nào làm chưa tốt có những lời nhận xét: “Em cần cố gắng”, “Em cần đọc kĩ đề”, “Em cần tính toán cẩn thận hơn”...
Đối với tôi, mọi sự cố gắng đều đáng được trân trọng, các em học sinh chỉ cần cố gắng tiến bộ từng bước, mạnh dạn tự tin trình bày, các em đều đáng được khen. Khuyến khích, động viên đúng lúc, kịp thời và đúng đối tượng học sinh sẽ có tác dụng tạo hứng thú cho các em trong học tập.
Động viên, khen thưởng là một hình thức không thể thiếu trong quá trình học tập. Và đổi mới các hình thức khen thưởng lại là một nghệ thuật sư phạm để đem 
lại sự hứng thú, sôi nổi trong quá trình học tập. Và thực tế khi áp dụng một số hình thức đánh giá, khen thưởng mới. Tôi thấy học sinh lớp mình đã sôi nổi , hứng thú , say mê học tập hơn hẳn. Do vậy kết quả dạy học được nâng cao rõ rệt.
7.4. Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Các giải pháp trên có thể áp dụng được đối với tất cả học sinh lớp 4 ở các trường Tiểu học.
8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có):
Không có thông tin bảo mật .
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến.
- Đối với giáo viên:
+ Giáo viên cần năng động, sáng tạo, luôn tìm tòi, cập nhật những cái mới. Trong bối cảnh thế giới hội nhập, sự bùng nổ thông tin ngày càng mạnh mẽ, nếu giáo viên không năng động, tích cực tìm kiếm, cập nhật thông tin thì họ sẽ bị lạc hậu. Việc giáo viên luôn sáng tạo, đổi mới, cập nhật tri thức thực tiễn sẽ giúp cho những giờ học cho học sinh trở nên bổ ích, hào hứng và hiệu quả hơn.
+ Giáo viên cần nhiệt huyết với nghề, với học sinh.
- Đối với học sinh: Học sinh cần tích cực, chủ động tham gia vào quá trình học tập, tự mình khám phá và chiếm lĩnh tri thức, sáng tạo đưa ra các ý tưởng giải quyết các vấn đề, các nhiệm vụ học tập.
- Về cơ sở vật chất: Đảm bảo đồ dùng học tập đầy đủ (tranh, ảnh, đồ dùng học toán); phương tiện, trang thiết bị dạy học hiện đại (máy tính, máy chiếu, mạng internet).
- Cần phối hợp chặt chẽ giữa Gia đình - Nhà trường - Xã hội, tạo điều kiện tốt nhất để các em được học tập trải nghiệm, tham gia vào các dự án học tập
10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến. 
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến tác giả
Sau khi áp dụng các giải pháp trong sáng kiến trên, tôi kiểm chứng lại và thu được kết quả như sau:
TSHS
Làm sai phép tính, viết lời giải chưa đúng
Làm đúng phép tính, viết lời giải sai
Làm đúng lời giải và phép tính
21
0
2
19
0
1
20

Tổng số HS
Đánh giá xếp loại
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
%
SL
%
SL
%
21
10
47,6
11
52,4
0
0
Qua bảng thống kê cho thấy hệ thống các giải pháp tôi thực hiện đã đạt kết quả đáng kể, các em học tập tiến bộ rõ rệt. Các em không chỉ ghi nhớ được công thức mà còn chủ động linh hoạt trong giải toán. Kết quả học sinh đạt điểm 9 – 10 trong các kì thi khảo sát tăng đáng kể. Các giải pháp trong sáng kiến này đã được đồng nghiệp, tổ chuyên môn và nhà trường đánh giá cao, đáp ứng được nhiệm vụ đổi mới phương pháp dạy học hiện nay.
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của cá nhân, tổ chức.
Sau khi tiến hành khảo sát thực trạng dạy học dạng toán tổng – hiệu cho học sinh lớp 4 trường Tiểu học..., tôi đã nghiên cứu và áp dụng các giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán 4. Sau một thời gian áp dụng các giải pháp trên, tôi đã kiểm tra lại và thu được kết quả giữa kì I, năm học 2020 - 2021 cụ thể như sau: Tổng số HS lớp 4 là 123 em trong đó có 70 em hoàn thành tốt (chiếm 56,9%), 53 em hoàn thành (chiếm 43,1%), 0 em chưa hoàn thành (chiếm 0%).
Nhìn vào thống kê trên, tôi thấy chất lượng dạy học môn Toán giữa kì I khá tốt, hơn nửa số học sinh đạt mức hoàn thành tốt, không có học sinh chưa hoàn thành. Tôi rất vui vì những giải pháp mà tôi đã nếu trong sáng kiến trên đã phần
nào đem lại hiệu quả trong việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán cho học 
sinh lớp 4 trong toàn trường. Tôi tin rằng nếu các giải pháp này được áp dụng rộng rãi ở tất cả các môn học sẽ đem lại hiệu quả cao và đem lại hứng thú và niềm vui cho các em trong học tâp.
11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng giải pháp lần đầu.
Số TT
Tên tổ chức/ cá nhân
Địa chỉ
Phạm vi/ Lĩnh vực áp dụng sáng kiến`
1
Phó Thị Minh Phượng 
Trường Tiểu học Yên Thạch , xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
2
Nguyễn Thị Lan Hương
Trường Tiểu học Yên Thạch , xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
3
Lê Thị Quý Lan
Trường Tiểu học Yên Thạch, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
4
Doãn Thị Thắm
Trường Tiểu học Yên Thạch, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó.
5
Vũ Thị Thản
Trường Tiểu học Yên Thạch, xã Yên Thạch, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.
Giải pháp giúp học sinh hứng thú và học tốt dạng toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu của hai số đó

Yên Thạch, ngày.....tháng......năm......
HIỆU TRƯỞNG
Trương Viết Bào
Yên Thạch, ngày 18 tháng 3 năm 2021
TÁC GIẢ
(Ký, ghi rõ họ tên)
Phó Thị Minh Phượng
Nguyễn Thị lan Hương

......., ngày.....tháng......năm......
HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP HUYỆN

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_giup_hoc_sinh_hung_thu_va_ho.docx
  • docxTóm tắt SKKN.docx